Xuân diệu (1)
Người Việt Nam biết…
yêu dĩ nhiên đã rất lâu. Ta biết làm thơ cũng lâu lắm rồi.
Chắc chắn ngay từ nghìn xưa, ca dao đã “kết” tình yêu. Nhưng
thơ của giới trí thức thì mãi đến cách nay (2012) khoảng
tám thập kỷ mới bắt đầu lấy tình yêu làm một nội dung
chính.
Tại sao trí thức Việt
lại chậm như rùa về thơ tình? Vì trí thức xưa kia theo Nho
giáo, mà Nho giáo không xem yêu đương là đề tài đáng cho
kẻ sĩ động bút. Nhắc tới rất nhẹ nhàng thì “nghiêm” như
Nguyễn Trãi cũng có lúc nhắc:
“Loàn đan ướm hỏi
khách lầu hồng
Đầm ấm thì thương
kẻ lạnh lùng
Ngoài ấy dầu còn áo
lẻ
Cả lòng mượn đắp
lấy hơi cùng”(1),
nhưng lấy tình cảm
nam nữ riêng tư ra làm một đề tài sáng tác quan trọng thì
trong suốt khoảng gần 500 năm từ Nguyễn Trãi, không hề có
một ai!(2)
“Dâu” hóa “bể” chẳng
bao lâu sau khi giặc Pháp chiếm nước. Nho giáo suy tàn. Thôi
làm Nho sĩ, trí thức Việt Nam bèn đua nhau “về nguồn”, “tình
thi” không kịp thở!
Gì chứ chuyện yêu đương
ra rít thì dân tộc Việt Nam nhất định không chịu nhường
bất cứ giống người nào. Chẳng qua trước kia… Khổng tử
không cho nên không làm, bây giờ hết thờ Khổng tử rồi,
trí thức ta tới tấp thơ tình cho kịp bình dân ta! Thơ tình
trí thức Việt Nam lọt lòng, rồi lớn nhanh như… thánh Dóng,
chẳng bao lâu đã sừng sững, nếu tính đến thập kỷ 1970
thì đã cao lớn hơn có lẽ bất cứ đâu!
Vừa cao vừa lớn, lại
vừa lắm vẻ. Nào vẻ “quê” của Nguyễn Bính, vẻ “tỉnh”
của Vũ Hoàng Chương, vẻ “ngập ngừng” của Hồ Dzếnh, vẻ
“trăng” của Hàn Mặc Tử, vẻ “xanh xưa” của Quang Dũng, vẻ
“Kinh Bắc” của Hoàng Cầm, vẻ “quê khoai” của Phùng Cung, vẻ
“thiền sư” của Phạm Thiên Thư v.v.
A, thế còn cái “con chim
đến từ núi lạ, ngứa cổ hát chơi”(3) lảnh lót hàng mấy
chục bài rất đỗi mê ly, giọng tình của nó mang vẻ gì
nhỉ?
Thơ tình Xuân Diệu
Xuân Diệu cũng có thơ
nội dung khác nhưng xem thơ tình là “đặc sản” của mình.
Huy Cận cho biết thế, rồi phát biểu luôn về thứ đặc
sản ấy:
“Thơ tình của Xuân Diệu
trước hết “nói” về tình, nhưng thông qua tình yêu “nói lên”
cảm xúc sâu thẳm về cuộc sống, về đời người (…) Có
thể nói bất cứ bài thơ tình nào của Xuân Diệu cũng mang
theo nó âm hưởng, cộng hưởng của cuộc đời, của đời
người (…) Thơ tình Xuân Diệu, suy cho cùng, ngẫm cho kỹ,
là bài ca sự sống”.(4)
À, “con chim từ núi lạ”
hót “bài ca sự sống”. Nó hót làm sao?
Hoài Thanh lắng nghe,
rồi bảo giọng… chim Xuân Diệu đặc sắc nhất ở chỗ
hết sức sôi nổi.(5)
Nhận xét của tri kỷ
và tri âm đúc thành lời tóm tắt: Thơ tình Xuân Diệu là
bài ca sự sống hát bằng giọng đặc biệt sôi nổi.
Tóm xong, ta lại thử
“mở” lại thơ ấy từ đầu.
Con người ta thường
bồng bột nhất ở tuổi thiếu niên, rồi điềm tĩnh dần.
Xuân Diệu không ngoại lệ với tiến trình đó, chỉ khác
người ở cái độ “bồng”: dù ở tuổi nào, nhà thơ cũng
cảm xúc nồng nàn hơn hẳn hầu hết xung quanh.
– Từ ngày mới lớn
cho đến năm xuất bản (1938), cảm xúc Xuân
Diệu nồng nàn có khi đến mức “sôi trào”: nội dung sùng
sục, trào ra ngoài hình thức bình thường, thành những dòng
thơ làm nhiều người bỡ ngỡ. Đây chẳng qua là thi sĩ đã
“thừa cơ” cái “tôi” vừa mới xuất hiện trong xã hội Việt
Nam mà tự cho phép mình biểu lộ đến tận cùng đặc điểm
của tâm hồn mình, chứ không phải đi bắt chước Tây nào
đâu. Và cũng như tất cả các nhà thơ Mới có chân tài, ông
đã rất nhanh chóng lọc bỏ ra khỏi thơ mình những yếu tố
ngoại lai không thích hợp tạm dùng trong buổi đầu cách tân
thơ.
– Trong sáu bảy năm sau
đó, thời sáng tác
, cảm xúc Xuân
Diệu giảm có lẽ dăm ba độ, “cháo lòng” không trào nữa
mà lục bục trong nồi, thành những vần hơi bớt rạo rực,
hơi thêm da diết, hơi trầm hơn trước.
không nổi
tiếng bằng , một phần vì thời điểm xuất
hiện (1945), phần nữa vì những thi phẩm giá trị của Xuân
Diệu trong thời kỳ này già dặn, chín muồi, không còn cái
vị chua khêu gợi của thơ thời “xuân non”.
– Kế tiếp là thời
tham gia cách mạng – kháng chiến, từ đây loại cảm xúc đặc
thù của Xuân Diệu tương đối hiếm khi hiện thành thơ. Căn
cứ vào một số ít lần hiện, ta thấy “nhiệt” cứ dần dần
hạ, “bài ca sự sống” thi thoảng cất lên, thì nói chung tiếng
giờ tuy vẫn vang nhưng kém rền, giọng giờ tuy vẫn bổng
nhưng dìu dặt chừng mực thay vì “sơn ca”. Điển hình, sau
1945 thơ tình Xuân Diệu không độc đáo bằng thời tiền chiến;
bù lại, thơ sau có những bài vẫn rất giá trị mà lại đằm
thắm hơn, tình tứ cụ thể hơn, dễ chia xẻ hơn…
Thơ tình Xuân Diệu chắc
chắn là một trong vài đóng góp lớn nhất vào sự nghiệp
thơ Việt Nam. Vì đa số các bài khá dài, chúng tôi chia ra
một số tuyển. Sau đây là tuyển 1.
Vội vàng
Cái tình xuân của Tản
Đà với của Xuân Diệu, mới khác nhau sao!
Cùng biết rõ “ta” không
mong được ở đời mãi với xuân, một đằng bình thản,
điềm đạm:
“Ngoài trăm tuổi vắng
ta trên trần thế,
Xuân nhớ ta chưa dễ
biết đâu tìm!
Cùng nhau nay hãy uống
thêm.” (bài Gặp Xuân),
một đằng xôn xao, cuống
quýt: “… muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn (…)
muốn thâu trong một cái hôn (…) non nước, và cây, và cỏ
rạng (…) cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
cho no nê thanh sắc của thời tươi”!
Với người xưa xuân
là bạn, gặp nhau nâng chén mời “xuân uống với ta đi”. Với
người nay xuân là “trái”, cứ hễ trông thấy là “muốn cắn”!
—-
Phải nói
Lòng anh lúc nào cũng
cháy bừng bừng, rồi anh bắt em phải đem lòng em ra đốt
cho anh thấy, thế này thì em nào chịu nổi anh Xuân Diệu!
Nhưng Xuân có thực “cháy”
vì một em cụ thể nào đâu. Xuân “tham lam” sự sống đấy
chứ.
Người tình đam mê của
Sống thôi đã lâu rồi. Không biết “đâu đó ngoài vô tận”,
có còn “lang thang” “một mảnh linh hồn nhớ thịt da”?(6)
—-
Nụ cười xuân
Có phải chỉ một mình
“thiếu nữ làm duyên, đứng mỉm cười” đâu.
Vạn vật xung quanh, hoặc
làm duyên hoặc không, đều đang cười hoặc mỉm cười.
Bọn chim nhộn nhất:
cười “ánh ỏi”. Mặt trời dĩ nhiên “nóng”: cười “chói”,
may có sương che bớt. Cánh hồng cười “tươi”, không biết
toe hay nụ. Lá của cây gì đó cười “xôn xao”. Gió thơm cười
“vô ý”. Liễu cười xanh “quá mỹ miều”. Hoa bên liễu cười
“thắm như kêu”…
Có phải riêng “vật”
nào đâu, trọn vẹn “mùa xuân chín ửng” đang cười đó.
Trọn vẹn tâm hồn Xuân
Diệu đang cười đó, thành một “nụ xuân” đưa
đến mũi ta tai ta “mùi hương mến yêu” và “tiếng hát say mê”
quen thuộc!
—-
Tương tư, chiều…
Anh nhớ em, luôn thể
anh cảm thật kỹ “tất cả buổi chiều”.
Anh có em để nhớ, có
chiều để “nghe (…) vào chậm chậm ở trong hồn hiu quạnh”,
là anh may mắn.
Mà em với chiều có
anh hết sức thiết tha, nhậy cảm như thế, tưởng cũng là
may mắn!
—-
Giục giã
Thật, có ai đọc bài
thơ sau đây của Xuân Diệu mà không thấy sốt cả ruột,
mà không muốn vất hết mọi công việc, chạy ngay đi… yêu.
Không cần phải tìm
cho được “em” cụ thể nào đâu, vì Xuân Diệu nói yêu là
nói về sự sống đó. Sự sống có bền chắc đâu, ai ơi,
hãy chăm “hút nhụy của mỗi giờ “!
—-
Mời yêu
Xuân Diệu khi này “không
hỏi chi nhiều”, chỉ cần “… những em gặp gỡ giữa đường
qua (…) ngừng mắt lại (…) trao cười, bỡ ngỡ” là kêu
thấy xuân rồi (7), khi khác ông lại đòi em phải “mở miệng
vàng… và hãy nói yêu tôi” thì ông mới khỏi “tự thấy lạc
loài trong nắng mới”. Lòng thi sĩ như nụ một loài hoa khi
thì nở dễ dàng, khi tuy đã “mùa xuân lên nặng lắm” nhưng
vẫn ngập ngừng, “chờ một tiếng” mới chịu “bừng nên hạnh
phúc”…
Cái tiếng kỳ diệu
ấy có đắt gì đâu, vì “thực càng hay, mà giả dối lại
sao”, vì “mặc kệ, nếu đó là dối trá”!
“Hỡi nhan sắc”, hãy
mau mau mở miệng cho “ta (có cớ để) tưởng tượng một tình
duyên”, “cho tôi mơ một ảo tưởng thâm trầm”, cho Xuân “ấm
đôi ngày xuân trống trải”!
—-
Lời kỹ nữ
Có phải thực cái bài
thơ sau đây của Xuân Diệu ngâm giọng Huế nghe nó “thấm”
hơn ngâm giọng Bắc? Hay chẳng qua vì đã trót nghe ngâm sĩ
nào đó ngâm giọng Huế hay quá mà bây giờ mỗi lần giở
đến Lời Kỹ Nữ lại thấy cổ họng mình chực phát ra…
tiếng sông Hương?
Kỹ nữ, bắc trung nam
đâu chẳng có. Kỹ nữ “đò” vài nơi có, nổi tiếng nhất
là ở Huế.
Đò “hở” hơn nhà nhiều
lắm, nên tha hồ mát và tha hồ rợn:
“… Gió theo trăng từ
biển thổi qua non;
Buồn theo gió lan xa
từng thoáng rợn.”
Gió từng cơn nên rợn
từng thoáng, còn trăng thì lúc nào cũng đầy khắp không gian,
nên sợ triền miên:
“… Em sợ lắm. Giá
băng tràn mọi nẻo.
Trời đầy trăng lạnh
lẽo suốt xương da.”
“Xao xác tiếng gà”, người
tình trăng gió đã đi rồi, mà gió vẫn thổi trăng vẫn sáng…
Lạnh quá, sông ơi!
—-
Xuân không mùa
Thật là một tuyên ngôn
xuân! Thật là một “đại cáo” xuân!
Cáo rằng: xuân là một
trạng thái tâm hồn có thể đến bất cứ lúc nào, vào bất
cứ tuổi nào. Ngẫu nhiên, nơi Xuân, xuân thường trụ, “vĩnh
viễn”.
Để cảm cái “đã sẵn
trong lòng (…) lai láng”, Xuân “không hỏi chi nhiều”. Chỉ cần,
chẳng hạn,
“Khi những em gặp gỡ
giữa đường qua
Ngừng mắt lại, để
trao cười, bỡ ngỡ”,
“là xuân đó. Tôi đợi
chờ chi nữa?”!
Nhớ Nguyễn Tuân chợ
tết Hương Cảng:”Thỉnh thoảng, liếc sang dòng người đi
ngược bên phía tay phải, tôi đón nhận được bao nhiêu nụ
cười của những giai nhân không quen biết. Những đóa hoa
hàm tiếu kia chỉ hiện ra trong khoảnh khắc, nhanh như một
tia chớp sáng. Những hình ảnh ấm áp, tươi tỉnh ấy, hiện
ra cho tôi đủ thì giờ để thèm tiếc…” (trong
).
Nguyễn vô duyên với
giai nhân Cảng đành, còn Xuân tuy được giai nhân Hà Nội
(?) “tình lại hứa” nhưng thừa biết rồi cũng lại “duyên
hờ” nhưng vẫn “nghe xôn xao rờn rợn đến hay hay…”. Nguyễn
“thèm tiếc” vì xuân này đơn chiếc, còn Xuân vô tư đón “bình
minh quá” vì với Xuân thực ra “những em (…) trao cười” kia
chẳng qua cớ để xuân lòng lại dợm nở lần thứ… không
nhớ bao nhiêu!
—-
Biển
Sau (1938)
và (1945), Xuân Diệu sáng tác có ít
hẳn đi. Những cảm xúc độc đáo của ông không thường
hiện thành thơ cho ta thưởng thức nữa; tuy nhiên, chúng vẫn
còn đó, như có thể thấy trong bài thơ Biển sau đây. Vẫn
cái chủ trương “… yêu mà chỉ để trong lòng, không tỏ
bày yêu mến cũng là không (…) phải nói, phải nói, và phải
nói”(8), lần này ông tìm ra được một hình ảnh thật thích
hợp để minh họa: biển hôn đi hôn lại bờ.
Bị biển tỏ bày “mãi
mãi”, bờ hết chịu nổi, đành rã tơi thành từng hạt…
thời gian!(9)
—-
Dấu nằm
Thật là… gợi cảm.
Đây “đường vai”, đây “nét tay”, đây… đây…!
Nhưng “dấu nằm” chẳng
qua hình ảnh chứ đâu phải chính người. “Dấu hương vương
vấn” ấy mới đích thị là “em”. Nhưng hương vô hình. Phải
kết hợp cả hai thứ dấu lại thì mới thấy như sờ sờ
“mình trong chăn đắp, tóc quanh gối nằm”!
Nếu “thanh thanh” mà không
phải là “dấu người yêu dấu” thì “anh” bất quá chỉ có
thể bâng khuâng tự hỏi người ngọc nào đó đâu rồi. Đằng
này, mới “đêm qua bốn phía trăng vàng”…
Bài thơ làm năm 1977.
Cái đêm qua ấy không biết “là bao giờ”, chỉ biết tuy xác
đã ngoại lục tuần mà “hồn anh” “bây giờ” vẫn hãy còn
xuân lắm…
—-
Xuân Diệu | Giục Giã
Mau với chứ, vội vàng lên với chứ,
Em, em ơi, tình non đã già rồi;
Con chim hồng, trái tim nhỏ của tôi,
Mau với chứ! Thời gian không đứng đợi.
Tình thổi gió, màu yêu lên phấp phới
Nhưng đôi ngày, tình mới đã thành xưa,
Nắng mọc chưa tin, hoa mọc không ngờ,
Tình yêu đến, tình yêu đi ai biết!
trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt:
Những vườn xưa, nay đoạn tuyệt dấu hài
Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai;
Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn.
Vừa xịch gối chăn, mộng vàng tan biến;
Dung nhan xê động, sắc đẹp tan tành.
Vàng son đương lộng lẫy buổi chiều xanh,
Quay mặt lại: cả lầu chiều đã vỡ
Vì chút mây đi, theo làn vút gió.
Biết thế nào mà chậm rãi, em ơi?
Sớm nay, sương xê xích cả chân trời,
Giục hồng nhạn thiên đi về cõi bắc.
Ai nói trước lòng anh không phản trắc,
Mà lòng em, sao lại chắc trơ trơ?
Hái một mùa hoa lá thuở măng tơ,
Đốt muôn nến sánh mặt trời chói lọi;
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối,
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.
Em vui đi, răng nở ánh trăng rằm,
Anh hút nhụy của mỗi giờ tình tự.
Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ!
Em, em ơi! Tình non sắp già rồi…