Sự phát triển của chế độ công xã thị tộc mẫu hệ

Chế độ công xã thị tộc mẫu hệ
Sự phát triển của chế độ công xã thị tộc mẫu hệ trong tiến trình lịch sử nhân loại đã cho thấy những thay đổi mới trong quan hệ sản xuất và tổ chức xã hội.
1. Hình thức hôn nhân và gia đình của chế độ mẫu quyền
Do yêu cầu phát triển của sức sản xuất, những mối quan hệ lỏng lẻo của bầy người nguyên thủy dần được thay thế bằng một tổ chức xã hội chặt chẽ hơn, ổn định hơn, vì thế tổ chức công xã thị tộc ra đời. Thị tộc mỗi ngày một lớn lên. Đến một lúc nào đó, thị tộc lớn tách đôi thành hai thị tộc nhỏ. Và cứ thế, phát triển thành bốn, thành tám. Hai thị tộc đầu tiên trở thành thị tộc mẹ. Mỗi thị tộc mẹ bao gồm một số thị tộc con, như vậy là hình thành hai nhóm thị tộc mẹ và con. Mỗi nhóm đó gọi là bào tộc. Hai bào tộc xuất phát từ cùng một nguồn gốc, hợp thành một bộ lạc.
Trong chế độ thị tộc lúc này, con cái tính theo dòng mẹ (mẫu hệ). Vì thế, người mẹ và người phụ nữ nói chung rất có uy tín trong thị tộc (khác với thời đại xã hội có giai cấp sau này). Trong chế độ công xã thị tộc, người phụ nữ được tôn trọng, có uy tín ngang hay hơn đàn ông. Sở dĩ như thế không phải chỉ vì người mẹ có uy tín đối với con cái – con cái chỉ biết mẹ, không biết cha, mà chủ yếu là vì vai trò kinh tế trọng yếu của người đàn bà trong thị tộc. Trong khi người đàn ông lo việc săn bắn, thì phụ nữ chủ yếu lo việc lượm hái, trồng trọt và chăn nuôi nguyên thủy, mà các công việc ấy thì đem lại thức ăn thường xuyên hơn cho thị tộc. Ngoài ra, chính người phụ nữ lại trông nom con cái, nhà cửa và quản lý kinh tế thị tộc, phân phối thức ăn. Vì thế, chế độ mẫu hệ thường cũng được gọi là chế độ mẫu quyền – chữ “quyền” ở đây không có nghĩa là quyền uy như trong xã hội giai cấp hiểu theo nghĩa pháp luật, mà chỉ có ý nói lên uy tín và vai trò quan trọng của người phụ nữ trong chế độ thị tộc lúc này.
Chế độ mẫu quyền là một giai đoạn phát triển lịch sử mà tất cả các dân tộc trên thế giới đều đã kinh qua. Nó đã tồn tại trong một thời gian rất dài, bắt đầu cùng với hậu kỳ thời đại đồ đá cũ và chấm dứt ở thời sơ kỳ và trung kỳ thời đại đồ đá mới (khoảng từ 6.000 đến 4.000 năm trước công nguyên). Người ta thường phân chia chế độ mẫu quyền thành hai thời kỳ khác nhau: chế độ mẫu quyền tảo kỳ và chế độ mẫu quyền phát triển. Chế độ mẫu quyền tảo kỳ tồn tại từ hậu kỳ thời đại đồ đá cũ đến sơ kỳ thời đại đồ đới, dựa trên kinh tế hái lượm, săn bắn và đánh cá nguyên thủy. Chế độ mẫu quyền phát triển tồn tại ở trung kỳ đồ đá mới. Lúc này người ta đã biết chăn nuôi gia súc và đã tiến tới nông nghiệp dùng cuốc. Chính nông nghiệp dùng cuốc và nghề chăn nuôi gia súc đã xác lập địa vị và vai trò trọng yếu của người đàn bà trong nền sản xuất xã hội lúc bấy giờ.
Sự phát triển lên một bước của sức sản xuất đã dẫn đến những thay đổi mới trong quan hệ sản xuất và trong hình thức hôn nhân và gia đình. Hình thức hôn nhân và gia đình của chế độ mẫu quyền phát triển là hình thức hôn nhân theo từng đôi cũng gọi là hôn nhân đối ngẫu (pairing family). Lúc này, trong số vợ rất đông của mình, người đàn ông chỉ có một vợ chính, và đối với người đàn bà đó anh ta là người chồng chính,trong số nhiều chồng khác. Hôn nhân đã là sự kết hợp của một đôi vợ chồng tương đối xác định. Song sự kết hợp đó vẫn có thể bị bên này hay bên kia cắt đứt một cách dễ dàng, nên nó không vững chắc, ngắn ngủi và dễ tan vỡ.
2. Tổ chức xã hội của chế độ công xã thị tộc mẫu hệ
Trong chế độ thị tộc, vì công cụ lao động còn thô sơ, muốn sinh tồn, con người vẫn phải tiến hành lao động tập thể. Lao động tập thể và sản xuất tập thể quyết định chế độ sở hữu tập thể. Đất đai, rừng rú, đồng cỏ, sông ngòi, ao, hồ… không phải là của riêng của một người nào, mà là thuộc quyền sở hữu chung của thị tộc, bộ lạc. Do đó quyền lợi vật chất mà các thành viên trong thị tộc được hưởng đều ngang nhau. Trong thị tộc, bộ lạc, có cơ quan quản lý dân chủ của thị tộc, bộ lạc, có lớp bô lão được kính trọng, tộc trưởng có uy tín, nhưng không một ai có thể vi phạm chế độ sở hữu chung hoặc được quyền hưởng thụ nhiều hơn người khác, kể cả tù trưởng, người đứng đầu bộ lạc. Quy luật kinh tế cơ bản của chế độ công xã nguyên thủy là sản xuất những tư liệu sinh hoạt cần thiết để cho công xã nguyên thủy tồn tại, bằng cách dùng những công cụ sản xuất thô sơ và dựa trên cơ sở lao động tập thể.
Do tính chất của chế độ sở hữu đó, cho nên quan hệ giữa các thành viên trong thị tộc cũng như giữa các thị tộc trong bộ lạc, là quan hệ bình đẳng. Tộc trưởng, tù trưởng có uy tín trong thị tộc, bộ lạc, nhưng không có quyền thống trị. Tiếng nói của hội nghị toàn thể các thành viên thị tộc hay bộ lạc là tiếng nói quyết định đối với mọi vấn đề và trong mọi trường hợp: tuyên chiến, nghị hòa, dời địa bàn cư trú, bầu thủ lĩnh… Chính tộc trưởng và tù trưởng cũng là do hội nghị thị tộc hay hội nghị bộ lạc bầu lên và có thể bãi miễn nếu xét thấy không xứng đáng.
Nói chung, trong xã hội nguyên thủy, không có chiến tranh nhằm mục đích cướp bóc, thống trị. Thỉnh thoảng cũng có khi xảy ra những cuộc xung đột giữa bộ lạc này với bộ lạc khác vì một sự xúc phạm nào đó đến danh dự, thì cũng nhanh chóng đi đến chỗ giải quyết một cách hòa bình. Các cuộc xung đột thường do nguyên nhân tinh thần gây ra và đòi hỏi sự báo thù; kết quả của nó không đem lại sự nô dịch. Tù binh bắt về thường được nhận làm con, em của thị tộc hoặc bộ lạc chiến thắng, hay cũng có khi bị giết đi vì thị tộc hoặc bộ lạc đó không đủ lương thực nuôi.
Sự phát triển của chế độ công xã thị tộc mẫu hệ
– LichSu.Org –