Kiến Thức Chung

Nhiếp ảnh ở Việt Nam từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 (Phần 1)


Vài nét về
các nhà nhiếp ảnh
từ cuối
thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ
20
ở Việt Nam và Saigon – Chợ Lớn
(Phần 1)


Nguyễn Đức Hiệp

Pierre Verger (1902-1996)

Từ khi bức ảnh
đầu tiên được chụp ở
Pháp vào năm 1826 bởi nhà phát
minh Joseph Nicéphore Niépce, thì cho đến
nay kỹ thuật nhiếp ảnh đã trải
qua nhiều giai đoạn phát triển lý
thú. Và qua những cố gắng và
sự đam mê của nhiều nhà nhiếp
ảnh từ giai đoạn đầu cho đến
ngày nay, chúng ta đã được
để lại nhiều di sản không những
có giá trị về lịch sử kỹ
thuật mà còn có giá trị to
lớn về văn hóa và xã hội.

Mục đích của
bài biên khảo này là tìm hiểu
về lịch sử nhiếp ảnh tại Việt
Nam bắt đầu từ khi kỹ thuật nhiếp
ảnh ra đời và phổ thông vào
giữa thế kỷ 19 ở Âu châu (đặc
biệt là Pháp), sau đó lan đến
Đông Dương do những nhà nhiếp
ảnh tiên phong người Pháp đến
Nam Kỳ (Cochinchine), Trung Kỳ (Annam) và Bắc
Kỳ (Tonkin) làm việc hay lập nghiệp,
cho đến các thập niên đầu
thế kỷ 20 khi các nhiếp ảnh gia người
Việt bắt đầu xuất hiện.

Họ là
những nhà nhiếp ảnh Pháp, Thụy
Sĩ, Bỉ – Hòa Lan, Hoa, Việt, Algérie
mà đa số là chuyên nghiệp, hoàn
toàn sống vào nghề mới mẻ này
và đa số cũng có văn phòng
chụp ảnh và rửa ảnh ở Saigon. Có
thể kể đến ông Émile Gsell với
các bức ảnh nổi tiếng ở Cam Bốt,
Nam Kỳ, Bắc Kỳ vào các năm trong
thập niên 1860, 1870 trong chuyến thám hiểm
Angkor, sông MeKong, và những ngày đầu
của Pháp khi họ đến ở Nam Kỳ,
Bắc Kỳ. Ông Pun Lun (繽 綸,
Tân Luân)
người Hoa từ Hồng Kông có văn
phòng nhiếp ảnh ở Saigon với các
bức ảnh Saigon cực kỳ hiếm có
trong thập niên 1860, 1870 và 1880; ông
Aurélien Pestel với các hình ở
Saigon vào cuối thế kỷ 19, và ông
Khánh Ký (Nguyễn Đình Khánh)
với các ảnh chụp trong các thập
niên 1920, 1930 của các nhà cách
mạng Việt Nam như Phan Châu Trinh, Nguyễn
An Ninh, Nguyễn Ái Quốc, hoặc cho tổng
thống Pháp Raymond Poincaré (1913), toàn
quyền Pierre Pasquier và các phóng sự
ảnh đăng trên báo
(1933) (1).

Ta cũng không quên
nhắc đến nhà nhiếp ảnh Thụy
Sĩ nổi tiếng Martin Hürlimann đã có
ghé Việt Nam năm 1926 và đã chụp
tại đây các bức ảnh đầy
nghệ thuật về đền tháp, tượng,
cảnh trí Champa ở miền Trung, và Hà
Nội ở miền Bắc Việt Nam.

Những hình ảnh
họ chụp từ giữa thế kỷ 19 đến
giữa thế kỷ 20 là những tư liệu
vô cùng quý giá cho nhiều đề
tài nghiên cứu lịch sử và xã
hội học ở Việt Nam. Hiện nay chúng
ta chưa khai thác hết được các
hình ảnh đã có hay vẫn còn
nằm ở các kho chứa dữ liệu hay
trong những bộ sưu tập tư nhân.

Như một ngạn
ngữ người Anh thường nói: một
tấm hình có giá trị bằng cả
ngàn chữ (),
các hình ảnh sinh hoạt đời sống
xã hội thường ngày và những
cảnh quan, nhà cửa, kiến trúc…
trong thời quá khứ do đó là cơ
sở mà tự nó có thể chứa
rất nhiều thông tin cho các công trình
nghiên cứu khoa học xã hội.

Đi đôi với
lịch sử nhiếp ảnh là lịch sử
phim ảnh. Cuốn phim được quay đầu
tiên ở Việt Nam có tên là do
hai anh em Lumière (Auguste và Louis) thực hiện
vào năm 1896 ở một làng gọi là
Namo (Nam Ô) gần Đà Nẳng, ngay sau khi
hai anh em người Pháp này sáng chế
ra máy quay phim vào năm 1895. Hai anh em trước
đó đã phụ giúp cha mình
trong nghề nhiếp ảnh, và từ đó
tìm ra được cách dùng cuộn
phim chạy liên tục trong camera. Sau sự kiện
lịch sử sáng chế máy quay phim (1895)
của mình, Ausguste và Louis Lumière đã
cho người đi đến nhiều nơi trên
thế giới để quay các phim ảnh,
mang lại những kỳ thú quan xa lạ ở
những xứ sở ngoại quốc (kể cả
các xứ thuộc địa) đến các
diễn giả ở Pháp (1).
Bài biên khảo này không có mục
đích đi sâu vào lịch sử
phim ảnh mà mục tiêu chủ yếu là
nhiếp ảnh và vì thế sẽ đề
cập đến lịch sử phim ảnh ở
Việt Nam trong một bài nghiên cứu sau.


Vài nét về
lịch sử kỹ thuật nhiếp ảnh và
nhiếp ảnh ở Việt Nam

Kỹ thuật nhiếp
ảnh từ thế kỷ 19 đến cuối
thế kỷ 20 có thể được tóm
tắt như sau:


Kỹ thuật
:

Năm 1837, Louis Daguerre
tìm ra phương pháp nhận hình ảnh
trên bảng đồng đã được
phủ trước đó trên mặt một
lớp “phim” với hóa chất (AgI2,
bạc iodine) hay (AgCl2,
bạc choride). Ảnh “chụp” sau đó
được tráng bằng hơi thủy ngân
(Hg) trên mặt phim, qua đó hơi thủy
ngân tụ lại trên hình, ở nơi
có phô ra ánh sáng và phản
ứng với hợp chất đẩy bạc ra
bám vào nền đồng. Cường độ
phản ứng tùy thuộc vào độ
ánh sáng đã đến trên mặt
phim. Phần còn lại hóa chất được
rửa đi bằng hóa chất .

Năm 1839, chính phủ
Pháp công bố phương pháp chụp
ảnh
như một món quà cho nhân loại.
Các hình trên bảng đồng được
bảo vệ bằng một tấm kiếng phủ
trên mặt hình đặt trong khung gỗ
hay kim loại chung quanh. Vì có chất bạc
trên mặt hình nên mặt ảnh giống
như gương phản chiếu khi nhìn xoay
nghiêng theo nhiều góc độ. Các
ảnh dùng phương pháp
rất bền, nếu khung kính bảo vệ
trên mặt bảng đồng không bị
hư hại qua thời gian.

Xem thêm:   [TOÁN CƠ BẢN LỚP 5] Bài 22: Sơ đồ tư duy – Viết số đo đại lượng dưới dạng số thập phân | Bút Vàng

Xem thêm :  Adobe Premiere Pro Has Stopped Working

Trong giai đoạn sau
đó, máy ảnh không những đã
ghi lại những hình ảnh quen thuộc, các
sự kiện xảy ra ở Pháp, mà máy
ảnh còn làm ngạc nhiên nhiều
người ở Paris, gây nhiều ấn tượng
và khơi dậy sự tò mò của
quần chúng, khi các hình ảnh được
mang về từ những miền đất xa xôi,
những đất nước với phong tục
văn hóa kỳ lạ đối với họ,
do những nhiếp ảnh gia dùng máy ảnh
kỹ thuật
đã dày công sức mang theo trên
đường du hành (2).

hinh-1

Hình 1: Trang
quảng
cáo máy Dubroni, khoảng năm 1866 (trích
từ N°
462 – 17/02/1866) (8), cho thấy lúc này nhiều
người du hành đã đi đến
nhiều nơi trên thế giới như Trung
Đông để chụp ảnh.

Ký giả Hippolyte
Gaucheraud đã viết một đoạn như
sau trên một tờ báo, một ngày
trước khi ông Daguerre trình bày khám
phá của mình trước Hàn Lâm
Viện Khoa Học của Pháp ngày 7 tháng
1 1839 về tương lai của nhiếp ảnh

(11):

Tiên đoán của
ông Gaucheraud quả thật đúng. Chưa
đầy một năm sau thì những người
du hành đã đi đến các tinh
thành trong nước Pháp và đến
những xứ sở nước ngoài xa xôi,
mang theo các máy do Daguerre sáng chế.
Mặc dầu có khó khăn về sự
cồng kềnh và trong vấn đề tiếp
liệu các mảnh đồng để chụp
ảnh, cũng như sự hiểu biết và
sự thích hợp của kỹ thuật

ở những nơi đầy ánh sáng
như vùng Địa Trung Hải, khí hậu
rất nóng trong sa mạc ở Ai Cập hay
thiếu thốn hoá chất ở những cảng
xa như tại Viễn Đông; nhưng những
hình ảnh trên mảnh đồng mà
họ mang được về Pháp là
những hình ảnh quí hiếm cho phép
ta thấy được một khoảnh khắc
đời sống, hay sự kiện xảy ra ở
nhiều vùng trên thế giới vào
giữa thế kỷ 19.

Hình ảnh đầu
tiên rất hiếm chụp ở Việt Nam và
Đông Dương là thuộc phương
pháp Daguerre (gọi là ).
Nhiếp ảnh gia Pháp Alphonse Jules Itier đi
theo phái đoàn Théodore de Lagrenée
trên đường qua Trung Quốc để
chụp hình ghi lại sự kiện ký
hiệp ước giữa Pháp và Trung quốc
vào năm 1844, đã có ghé Đà
Nẵng, để lại một bức ảnh
chụp đồn lính Việt Nam.

Kỹ thuật

Đây là phương
pháp dùng hóa chất
phủ trên trên nền kính thủy
tinh. Phương pháp này được
sáng chế ở Anh, nó lần lần thay
thế phương pháp
vì giản tiện hơn, độ nhạy và
thời gian ghi ảnh (exposure) cũng nhanh hơn. Ở
Pháp phương pháp này gọi là
.
Phương pháp
phát triển mạnh trong thời gian 1855 đến
1865. Phương pháp
không còn thông dụng vào khoảng
thập niên 1860s.

hinh-2

Hình
2: Máy ảnh
hiệu Darlot, khoảng 1885, modèle: Chambre
de
voyage(8)

Ở nhiều nơi như
Pháp, phương pháp ”
vẫn còn được dùng cho đến
thập niên 1880, gần cuối thế kỷ
19 trước khi được hoàn toàn
thay thế bởi kỹ thuật
trên sắt và kỹ thuật mới trên
phim và giấy.

Năm 1851, Frederick Scott
Archer tìm ra phương pháp làm ảnh
qua quá trình “bảng ướt”
(wet plate process), đôi khi gọi là quá
trình
(collodion process) dựa theo tên hóa chất
được dùng trên nền (bảng)
kính. Hóa chất là hay
(halogen gas) được hòa tan vào

(dung dịch
trong cồn hay ester). Dung dịch này sau đó
được chế lên mặt kính, sau
khi dung dịch đông lại nhưng vẫn
còn ướt thì người ta nhúng
kính vào một dung dịch khác gọi
là .
và vì thế
trên mặt kính sẽ phản ứng với
.
Kết quả là hợp chất chất (iốt
bạc) hay (bromit bạc)
sẽ được hình thành trên
kính.

Khi phản ứng hoàn
tất, kính được lấy ra khỏi
dung dịch và
được đặt vào camera để
chụp trong khi vẫn còn ướt. Khi tia ánh
sáng chiếu lên mặt kính chứa

thì kim loại bạc (silver) sẽ trầm tích
làm tối lại và tùy theo cường
độ ánh sáng, độ tối (lượng
bạc) sẽ khác nhau. Vì mặt kính
sẽ mất đi độ nhạy nếu chất
đông chứa khô đi
nên cần phải dùng ngay càng sớm
càng tốt. Sau khi chụp ảnh xong trên
mặt kính, mặt kính còn ướt
chứa ảnh được rửa bằng dung
dịch có chứa (FeSO4),

và .
Vì thế người chụp ảnh phải
mang theo hóa chất dung dịch để sửa
soạn trước khi và sau khi chụp.


Kỹ thuật
(hay )

Khoảng cùng thời
gian với kỹ thuật

là kỹ thuật chụp và rửa ảnh
trên giấy gọi là
do ông William Fox Talbot sáng chế. Quá
trình ,
mặc dầu hình ảnh không rõ qua
độ phân giải thấp so với

nhưng nó có một lợi điểm
đặc biệt quan trọng: từ một ảnh
âm giấy duy nhất, hàng chục hay trăm
ảnh giống nhau được rửa ra. Vì
trên giấy nên dễ đuợc các
nghệ sĩ liên kết chung vào với
nghệ thuật họa hình, dễ gắn vào
các album, đóng khung như tranh hay mang vào
trong sách in. Vì thế vào đầu
thập niên 1850, kỹ thuật chụp ảnh

trên giấy bắt đầu thay thế kỹ
thuật .
Mặc dầu ở Mỹ
còn hiện diện lâu hơn nhưng ở
Pháp nó hầu như biến mất vào
đầu năm 1860. Kỹ thuật
dùng ảnh âm giấy (paper-negative) rất
phổ biến và được dùng nhiều
nhất là cho những người đi du hành
hay du lịch.

Phương pháp

dùng kính cho hình ảnh rõ hơn
phương pháp
trên giấy. Cả hai đều dùng ảnh
âm (negative) rồi từ ảnh âm mới
rửa ra hay nhân ra thành nhiều ảnh. Có
thể xem
là kết hợp đặc tính tốt
nhất của
là rõ, có độ phân giải
cao và của
là dễ nhân bản ra nhiều ảnh từ
ảnh âm, và phóng đại được
hình.

Xem thêm:   Lịch sử 11 Bài 13

Xem thêm :  3 cách làm chân gà sả tắc – sa tế – sốt thái ngon ngất ngây

Trong thập niên
1850, có hai trường phái, một ủng
hộ
và một ủng hộ
và cả hai đều phổ thông trong
thời gian này trong khi
biến mất dần
vào khoảng thập niên 1860.
dùng kính rất phổ thông trong các
hình chụp chân dung vì ảnh rất
rõ, đủ nhanh trong khi
dùng giấy âm được dùng
nhiều bởi các nghệ sĩ hay những
người đi du hành hay du lịch vì
sự tiện lợi của nó. Nói chung

được dùng trội hơn so với

trong thập niên 1860.

Sự phổ thông
của nhiếp ảnh đã được
hỗ trợ và thúc đẩy thêm
bởi sự thành lập của hội nhiếp
ảnh đầu tiên trên thế giới
vào năm 1851 ở Paris. Đó là hội

(sau này gọi là ,
SFP, và vẫn còn tồn tại cho đến
ngày nay). Hội này tổ chức các
buổi triển lãm ảnh, kỹ thuật
nhiếp ảnh, hội thảo, các sách
và tạp chí về nhiếp ảnh được
xuất bản (như tạp chí ).
Hội viên không những từ khắp nước
Pháp mà còn có từ các nước
châu Âu khác.


Một vài thí
du các ảnh chụp theo kỹ thuật

Sau các ảnh chụp
ban đầu rất hiếm, dùng kỹ thuật
,
những bức ảnh chụp ở Việt Nam
dùng phương pháp
(trên kính) và
(trên giấy). Bức ảnh chân dung đầu
tiên của người Việt Nam là ảnh
của ông Phan Thanh Giản chụp ở Paris,
dùng phương pháp
(collodion) trên kính, khi ông dẫn đầu
sứ bộ sang Pháp năm 1863 để hy
vọng chuộc lại ba tỉnh miền Đông
Nam bộ.

Trong bản tường
trình của chuyến đi này, ,
Phó sứ Phạm Phú Thứ đã
viết như sau về kinh nghiệm của phái
đoàn tiếp xúc lần đầu với
máy ánh:

hinh-3

Hình 3: Ảnh Phan
Thanh Giản chụp ở Paris dùng kỹ thuật

Ta cũng có thể
thấy các hình ảnh của nhà
nhiếp ảnh Gsell chụp năm 1866 ở Saigon,
miền Nam và Cam Bốt là thuộc kỹ
thuật
hoặc .

hinh4

Hình 4: Tu viện
Sainte Enfance của các soeurs dòng thánh
Phao Lô (St Paul de Chartres) là tu viện nữ
tu đầu tiên ở Việt Nam Hai nữ tu
đầu tiên đến Saigon năm 1860, và
tòa nhà được xây dựng xong
vào năm 1864 theo thiết kế của Nguyễn
Trường Tộ. Hình trên của Émile
Gsell chụp năm 1866 tức hai năm sau khi xây
xong. Tòa nhà này sau đó vào
cuối thế kỷ 19 được thay thế
xây lại như còn lại hiện nay
(tháp chuông không còn) –
().

Sau đây là một
vài hình ảnh do thống đốc
Charles le Myre de Viliers, vị thống đốc dân
sự đầu tiên ở Nam Kỳ đã
chỉ thị là các công trình xây
dựng trong nhiệm kỳ của ông phải
được chụp ảnh để làm
tài liệu (4). Các ảnh này được
tồn trữ ở kho tư liệu Bộ Ngoại
giao Pháp, Quai d’Orsay, hơn 120 năm không
ai để ý cho đến năm 2002 thì
Tòa lãnh sự Pháp ở Saigon mới
mang ra triển lãm. Hình ảnh rất chi
tiết, máy ảnh thuộc loại lớn
(4), ảnh có màu đỏ có thể
là do chất hóa học phai màu hay cũng
có thể là do nền bằng kính
()
có nền đỏ sau lưng.

hinh-5

Hình 5: Kênh
Charner chụp năm 1882, sau này (1887) được
lấp thành đường mà
ngày nay gọi là đường Nguyễn
Huệ. Bức hình này rất có thể
do nhiếp ảnh gia Émile Gsell chụp.

hinh-6

Hình 6: Bức hình
này thực sự là do Émile Gsell chụp
(thông tin theo một hình
rửa từ bảng âm như hình này
được bán đấu giá năm
2007). Như vậy là ảnh phải được
chụp trước năm 1879 (năm ông mất)
chứ không phải là năm 1882 như
được ghi trong triển lãm của Tổng
Lãnh Sự Pháp ở Saigon.

hinh-7

Hình 7: Nhà thờ
Đức Bà, Notre Dame, năm 1882 (chưa có
tháp chuông, tháp chuông chỉ được
xây hai bên vào năm 1895). Hình này
gần giống như bức hinh của nhà
nhiếp ảnh Aurélien Pestel chụp.

hinh-8

Hình 8: Trại lính
bộ binh thuộc hải quân thuộc địa,
năm 1882. Con đường phia trước hinh
và tòa nhà ở giữa nay là
đường Đinh Tiên Hoàng. Một
phần của tòa nhà bên trái (nay
là thuộc trường Đại học Dược
khoa) và bên phải vẫn còn. Độ
phân giải của ảnh rất cao, nếu
“zoom” lớn sẽ thấy một người
lính quân phục trắng ở giữa tầng
trệt đang nhin về phia người chụp
ảnh và dưới gốc cây bên
trái là một người làm vườn
đang tưới cây.


Sáng chế rửa
ảnh trên giấy tráng

Ở cuộc triển
lãm kỹ nghệ các quốc gia (Great
Exhibition of the Works of Industry of All Nations) được
tổ chức ở London, Hyde Park năm 1851 trong lâu
đài kính ), có
hai sự kiện đáng chú ý là
sự ra đời của phương pháp

của Frederick Archer và sáng chế mới
của Désiré Blanquart-Evrard rửa in ảnh
nhanh chóng qua ánh sáng mặt trời
trên giấy tráng .
Qua sáng chế giấy
thay kính với giá thành các ảnh
rất rẻ, Blanquart-Evrard đã mở hãng
in ảnh “
đầu tiên ở Pháp (Lille) năm 1851
và in nhiều album ảnh.

Ảnh rửa trên
giấy
nhanh chóng trở thành phổ thông được
ưa chuộng. Từ một ảnh âm, nhiều
ảnh được rửa và in ra trên
giấy. Các ảnh trên giấy này
cũng được dùng dễ dàng như
minh họa trong các sách in vì chúng
không cồng kềnh và không phản
chiếu ánh sáng làm chóa như
ảnh trên kính.

Cho đến thập
niên 1850, những nhà chụp ảnh chuyên
nghiệp dùng kỹ thuật
hay
với độ phân giải cao trong khi những
người nghiệp dư dùng
với độ phân giải thấp. Sự ra
đời của giấy in ảnh
đều được đón nhận hồ
hởi bởi cả hai giới và đã
thành công vượt bực. Khoảng cách
kỹ thuật và giới hạn giữa các
nhà chụp ảnh nghiệp dư và chuyên
nghiệp đã được thâu ngắn
lại.

Ảnh âm dùng
để rửa ra ảnh trên giấy albumen
thường là thuộc loại
()
trên giấy hay thuộc loại “colladion âm”
(
tức )
trên kính. “Bảng âm ướt
colladion” (colladion wet-plate negative) dùng ngay sau
khi người chụp ảnh vừa tráng xong
chất hóa học lên mặt kính và
gắn kính vào trong camera để sửa
soạn chụp. Vì bảng “colladion âm”
có độ phân giải cao nên chúng
thay thế dần ảnh âm trên giấy.

Ảnh trên giấy

được rửa từ bảng “colladion
âm” đặt trên khung gỗ, bằng
phản ứng hóa
học khi đưa thẳng ra ánh sáng mặt
trời. Nếu trong ngày có mây và
ít ánh nắng, thì phải mất
khoảng 1 đến 5 phút để bức
ảnh được hoàn thành. Sau đó
giấy
có ảnh vừa tạo, được tân
trang thêm trong phòng sáng; thường
thì các ảnh được viền khung
chung quanh trước khi đưa cho khách hàng.

Ta có thể nhận
thấy các ảnh in dùng
lâu ngày thường bị ngả màu
vàng nâu như đa số các chụp
và rửa trên giấy
vào đầu thế kỷ 20.


Kỹ thuật
(hay )

Kỹ thuật
được sáng chế vào năm 1856 ở
Mỹ bởi giáo sư hóa học Hamilton
Smith. Phương pháp này không mới,
chỉ là cải tiến trên phương
pháp :
thay vì hình trên mặt kính thì
đổi qua trên mặt kim loại sắt hay
thiếc. Phương pháp này rất phổ
thông ở Mỹ bắt đầu từ thời
nội chiến Nam – Bắc cho đến cuối
thế kỷ 19.

Mặt trên tấm
kim loại làm bằng sắt (Fe) được
phủ bởi một chất hóa học màu
đen (chúng thường được dùng
trong sơn mài), chất hóa học này
có xuất xứ từ Nhật nên được
gọi là .
Chất này làm mặt tấm sắt không
bị rỉ sét và làm mặt kim loại
trở thành nhẵn, dựa trên đó
hình ảnh sẽ được in rửa ra


Carte de Visite (CDV)

Cuối
thập niên 1850, Andre Disdéri đưa ra các
ảnh dạng
(CDV) (3). Đây là một loại ảnh
trên giấy có tính chất thương
mại phổ thông. CDV dễ sản xuất
hàng loạt và rẻ so với tintype và
dùng
(chất trong lòng trắng của trứng gà)
tráng trên giấy sau đó là lớp
.
Mặc dầu không bền như
hay
nhưng độ phân giải cũng cao và
giá lại rẻ cho người tiêu dùng
và quan trọng là không cồng kềnh,
dễ dùng vì vậy nên phổ thông
trong mọi tầng lớp.

CDV sản
xuất dễ và rẻ so với
và phẩm chất cũng tốt nên vì
thế đến với quần chúng tiêu
thụ rộng rãi hơn, mặc dầu không
bền như tintype vì hình trên giấy
(thay vì trên sắt) và khi để lâu

ngả màu vàng nâu.


Kỹ thuật nhiếp
ảnh trên phim nhựa

Năm
1884, ông George Eastman ở Mỹ sáng chế
ra phương pháp chụp ảnh trên giấy
và phim nhựa dùng chất hóa học
nhờn khô. Năm 1888, máy chụp ảnh
Kodak ra đời dùng cuộn phim, người
chụp ảnh không cần phải mang theo các
bảng (plate) và chất hóa học. Chỉ
cần bấm để chụp ảnh, còn
việc tráng, rửa là do công ty
“”
đảm nhiệm. Đến cuối thế kỷ
19 và đầu thế kỷ 20 thì nhiếp
ảnh tân thời như ta biết hiện nay
thực sự ra đời và đi đến
quần chúng rộng rãi (trước khi
có nhiếp ảnh số, digital photography, vào
đầu thế kỷ 21).

hin,h9

Hình 9: Máy ảnh
hiệu Demaria-Lapierre, model: caleb. Ra đời khoảng
năm 1914 (8)

Nguyễn Đức Hiệp


Chú thích:

(1)
Phim này của anh em Lumière là do Gabriel
Veyre quay ở một làng gần Đà
Nẵng và sau đó được chiếu
vào năm 1900 ở nhiều nơi trên nước
Pháp và Âu châu trong những năm
đầu tiên của lịch sử điện
ảnh. Phim này có thể xem ở
http://www.youtube.com/watch?v=9dk15FlvRj4.
Phim thứ nhì của anh em Lumière ở
Việt Nam là
(có thể xem ở
http://www.youtube.com/watch?v=WH5NZo8Mm0M).
Và thứ ba là .
Bình luận và nghiên cứu chi tiết
về các phim này, có thể xem bài
viết của hai giáo sư Barbara Creed và
Jeanette Hoorn (University of Melbourne) trong phần tham khảo
(18)

Tham khảo

  1. Marie-Hélène Degroise,
    Photographes en Outre-Mer (1840-1944),     http://photographesenoutremer.blogspot.com/

  2. Daniel, Malcolm. “The Daguerreian
    Age in France: 1839–1855”. In Heilbrunn Timeline of Art History. New
    York: The Metropolitan Museum of Art, 2000–.
    http://www.metmuseum.org/toah/hd/fdag/hd_fdag.htm (October 2004).

  3. Daniel, Malcolm. “The Rise of
    Paper Photography in 1850s France”. In Heilbrunn Timeline of Art
    History. New York: The Metropolitan Museum of Art, 2000–.
    http://www.metmuseum.org/toah/hd/frph/hd_frph.htm (September 2008)

  4. Hình ảnh một số từ
    http://www.flickr.com/photos/[email protected]/collections/

    http://belleindochine.free.fr/Saigon1882.htm

  5. Nguyễn Đình Đầu, Tìm lại cầu tàu
    nơi Bác Hồ rời cảng Sài Gòn, Báo Lao Động ngày 4/6/2011,
    http://laodong.com.vn/Tin-Tuc/Tim-lai-cau-tau-noi-Bac-Ho-roi-cang-Sai-Gon/45151

  6. Xavier Guillaume, La terre du
    Dragon, Tome 1, Publibook, Paris, 2004.

  7. Phạm Phú Thứ, Tây hành nhật ký, Tô
    Văn Nguyễn Đình Diệm và Văn Vĩnh, Nxb Văn Nghệ, Tp HCM, 2001.

  8. Hình ảnh các camera xưa và nay,
    http://www.collection-appareils.fr/general/html/listeD_imagettes.php?RadioGroup1=chrono&submit=Trier

  9. Voyage d’exploration en indochine:
    par les lieutenants Francis Garnier et Delaporte, Le Tour du Monde –
    Volume XXII -1870-2nd semestre – Pages 305-321,
    http://collin.francois.free.fr/Le_tour_du_monde/Frame7_textes/TdM_frame7.htm

  10. La Conquête du delta du Tong-King,
    Romanet du Caillaud, Le Tour du Monde, Volume XXXIV – 1877 – 2nd
    semestre,
    http://collin.francois.free.fr/Le_tour_du_monde/Frame7_textes/TdM_frame7.htm

  11. Malcolm Daniel, Daguerre
    (1787–1851) and the Invention of Photography, The Metropolitan Museum
    of Art, http://www.metmuseum.org/toah/hd/dagu/hd_dagu.htm

  12. Nguyễn Đức Hiệp, Võ An Ninh: Nhiếp
    ảnh và cuộc đời, 2009,
    http://www.vannghesongcuulong.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=10502http://www.vannghesongcuulong.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=10502

  13. Kho lưu trữ Bộ ngoại giao Pháp ,
    http://www.archivesnationales.culture.gouv.fr/anom/fr/11_anc.documents/0905_Pestel/Pestel.html

  14. http://www.liveauctioneers.com/item/4482940

  15. Victor Goloubew, V.-T. Holbé,
    Bulletin de l’Ecole française d’Extrême-Orient, Année 1927, Volume 27,
    Numéro 27, p. 525.

  16. Chronique, Cochinchine, Bulletin
    de l’Ecole française d’Extrême-Orient, Année 1933, Volume 33, Numéro
    33, p.1110-1111.

  17. Vương Hồng Sển, Saigon năm xưa,
    Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1991.

  18. Barbara Creed and Jeanette Hoorn,
    Memory and History: Early Film, Colonialism and the French Civilising
    Mission in Indochina, in “French History and Civilization”, Papers from
    the George Rudé Seminar Volume 4, 2011, Edited by Briony Neilson and
    Robert Aldrich,
    http://www.h-france.net/rude/rudevoliv/CreedHoornVol4.pdf.

  19. John Keay, The Mekong Exploration
    Commission 1866-68: Anglo-French rivalry in South East Asia, Asian
    Affairs, vol. XXXVI, no. III, November 2005,
    http://end-of-empires-south-east-asia.wikispaces.com/file/view/THE+MEKONG+EXPLORATION+COMMISSION.pdf

  20. Làng nhiếp ảnh Lai Xá, http://langnghenhiepanhlaixa.com/

  21. J. Y. Claeys, Martin Hurlimann:
    Ceylan et l’Indochine, architecture, paysages, scènes populaires,
    Bulletin de l’École francaise d’Extrême-Orient, 1930, Vol. 30, no. 30,
    pp. 180-181.

  22. Pierre Verger Foundation,
    http://www.pierreverger.org/fpv/index.php?option=com_wrapper&Itemid=176

  23. Doig Simmonds, Obituary: Pierre
    Verger, The Independent Sat. 2 March 1996,
    http://www.independent.co.uk/news/people/obituary-pierre-verger-1339851.html

  24. Peter Cohen, Pierre Fatumbi Verger
    as social scientist, Cahiers du Brésil Contemporain, 1999, n° 38/39, p.
    127-151.

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Giáo Dục

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Kiến Thức Chung

Related Articles

Back to top button