Kiến Thức Chung

Giọt lệ trong hồn – Kim Huyn Hee

Giọt lệ trong hồn

[Hồi ký] Giọt lệ trong hồn – Kim Huyn Hee

List truyện phương Đông hoàn. Click vào.



 

 Trang 1/9
 [ 27 bài ] 
Chuyển đến trang 
1

,

2

,

3

,

4

,

59 Trang sau
Đề tài trước | Bài chưa đọc đầu tiên | Đề tài tiếp theo 

Giọt lệ trong hồn – Kim Huyn Hee

 

 27.06.2017, 05:01

Hình đại diện của thành viên

Số 15

☆~ Số 15 ca ~☆

 

Ngày tham gia: 14.10.2015, 23:36
Bài viết: 3081
Được thanks: 2108 lần
Điểm:

7.62

Tài sản riêng:

10

[Hồi ký] Giọt lệ trong hồn – Kim Huyn Hee – Điểm:

Đang tải Player đọc truyện…

Tốc độ đọc truyện:

0.90x

(Đóng góp ý kiến về player nghe đọc truyện)

Tác giả: Kim Huyn Hee

Dịch giả: Trần Lê

Nguyên tác: The Tears Of My Soul © 1993 by Kim Huyn Hee

Link:

LỜI NÓI ĐẦU

Ngày 26 tháng Tư 1989. Hán Thành, Nam Hàn.

Tôi ngồi trong căn phòng đợi u uất, xám xịt dành cho các bị cáo, nghẹn thở chờ đợi bản án. Ngoài hành lang dẫn đến phòng xét xử, đám đông giận dữ chen lấn bên cánh cửa, tôi sợ họ sẽ tràn vào phòng. Tiếng gào thét đáng ghét vang lên, dường như cả tòa nhà cũng rung động trước những lời nguyền rủa.

Sát nhân, sát nhân, sát nhân…

Tôi chắp hai tay, toàn thân run rẩy. Những lời hò hét ấy dành cho tôi.

Không. Người ta hò hét với tôi.

Trong khi run lên vì những lời kêu la, tôi lại nghĩ đến các vụ án xét xử những kẻ phản bội ở Tòa án Nhân dân ngay sau khi nước Triều Tiên vừa thoát khỏi ách thống trị của Nhật. Giờ đây tôi mới hiểu bầu không khí hồi ấy cũng kinh hoàng biết nhường nào đối với những kẻ bị xét xử.

Mặc dù trong phòng còn có những người khác – một bác sĩ, một nữ y tá và ba điệp viên đặc biệt, hầu như sống cùng tôi trong những năm trở lại đây -, chưa bao giờ tôi cảm thấy cô độc hơn lúc này. Cho dù tôi cảm thấy những con người ấy rất gần gũi với tôi và họ cũng cảm thấy như vậy, điều này không quan trọng; tôi chờ đợi bản án, chứ không phải họ. Trong giây phút đó, tôi vô cùng ghen tị vẻ hồn nhiên của họ, tương lai của họ và một nỗi buồn ghê gớm xé lòng tôi.

Để tự an ủi, tôi cố gắng nhắc lại những dòng “Thánh Kinh” mà trước đây cha tuyên úy đã viết cho tôi, nhưng rồi cánh cửa bật mở và bốn cảnh sát bước vào trong bộ quân phục được hồ cứng, đeo phù hiệu lấp lánh, để đưa tôi vào phòng xử án. Họ bao quanh để bảo vệ tôi, như thế, họ cùng tôi chen chúc qua đám đông nhộn nhạo đang phát khùng. Căn phòng lập tức bùng nổ. Khi đó, lần đầu tiên tôi xuất hiện trước công chúng vì những cuộc xét xử không diễn ra công khai, chỉ đến khi tuyên án người ta mới cho quần chúng vào. Mọi người như một bầy ác thú bị bỏ đói, giận dữ, những lời nhục mạ, nguyền rủa trút như mưa lên đầu tôi. Nếu có thể, họ sẵn sàng xé tôi thành nhiều mảnh.

– Con nặc nô khốn nạn! – một phụ nữ đứng tuổi ngồi ở những hàng đầu suýt xoa. – Mày đã sát hại đứa con trai độc nhất của tao. Bây giờ ai là người chăm sóc tao đây?

Tôi cảm thấy thời gian như dừng lại trong quãng đường đến ghế bị cáo và khi rốt cục được ngồi xuống, tôi đã không thể tự chủ nổi. Tim tôi đập loạn xạ, người tôi run lẩy bẩy như cầy sấy. Tôi bật khóc nức nở và thầm thì nhắc đi nhắc lại một từ duy nhất: mẹ, mẹ ơi!

Dù mẹ có hình dung một số phận thế nào đi nữa cho con gái mẹ, chắc hẳn mẹ không nghĩ đến cảnh tượng này. Mẹ đã nuôi dạy tôi với tình cảm trừu mến khôn cùng và sự tận tâm hoàn toàn, và tôi cảm thấy tôi đã phản bội mẹ tôi. Trong khoảng khắc đó, tôi nghĩ đến cảnh mẹ tôi cẩn thận mặc bộ đồng phục nhà trường cho tôi, mẹ đính những ngôi sao chính tay mẹ làm lên áo quần tôi. Giá giờ đây mẹ được thấy tôi, hẳn tim mẹ sẽ ngừng đập.

Nhưng có một điều còn tồi tệ hơn thế nữa. Chẳng những tôi đã phản bội mẹ tôi mà tôi còn phản bội tổ quốc tôi. Chính phủ tôi chắc hẳn sẽ coi lời khai báo của tôi cho chính quyền Nam Hàn là một sự phản bội đê tiện nhất. Vì hành vi phản bội ấy, chẳng những tôi bị hắt hủi mà gia đình tôi chắc chắn cũng bị giam giữ trong một trại cải tạo lao động kinh khủng nào đó, và họ sẽ phải chịu đựng ở đó đến cuối đời. Tôi đã phá hỏng chẳng những đời tôi, mà cả đời họ nữa.

Bắt đầu những thủ tục hình thức, nhưng tôi không làm sao có thể chú ý đến chúng. Tôi hoàn toàn chắc chắn là người ta sẽ kết án tử hình tôi. Tôi đã làm nổ chuyến bay 858 của Hàng Hàng không Triều Tiên (Korean Air Line), tôi phải chịu trách nhiệm về cái chết của 115 người. Thật đặc biệt, nhưng cho đến khi tôi chưa bước chân vào căn phòng xử án có bầu không khí sôi động, tôi chưa nhận thức được đày đủ rằng tôi đã làm một việc kinh khủng đến mức nào. Mặc dù tôi đã đặt bom trên máy bay, tôi không nhìn tận mắt vụ nổ cũng như tôi không thấy địa điểm xảy ra tai họa và cho đến giờ, bằng một cách nào đó, tôi vẫn cảm thấy tôi chẳng dính dáng gì đến hành động này, như thế nó đã chẳng xảy ra hoặc tôi cũng không phải chịu trách nhiệm thực sự về điều đó. Nhưng khi nhìn thấy thân nhân những nạn nhân của tôi trong phòng xử án, cuối cùng tôi mới bắt đầu cảm nhận sâu sắc tính rùng rợn trong tội trạng của tôi. Tôi không dám liếc nhìn xuống cử tọa. Bởi lẽ tôi đã phá hỏng cuộc đời họ. Tôi không cảm thấy tôi có đủ nghị lực, đủ dũng cảm để làm điều đó.

Vài người phụ nữ đứng tuổi đã gây cho tôi nỗi dày vò kinh khủng nhất, những người này vẫn bám vào tia hy vọng rằng thực ra tai họa đã không xảy ra, rằng chính phủ Nam Hàn đang giữ kín các thân nhân của họ ở một nơi nào đó, nhưng họ vẫn sống.

Tôi khóc nức nở. Tôi muốn ôm chầm những con người đó, muốn nói cho họ hay tôi hối hận biết nhường nào vì hành động tôi đã làm.

(NCTG) Trong công trình sử học “Sách đen về chủ nghĩa cộng sản” (Le livre noir du communisme, Robert Laffont, Paris 1997), tác giả Rémi Kauffer – một chuyên gia về tình báo và khủng bố – đã dành bảy chương sách để nói về mối quan hệ giữa các thể chế “cộng sản hiện thực” (hiểu theo nghĩa: các thể chế tự nhận mình là “cộng sản”, không nhất thiết phải tuân thủ các nguyên tắc của chủ nghĩa Marx) và chủ nghĩa khủng bố.

Tác giả cuốn sách trên  khẳng định: trong hai thập niên 20 và 30, phong trào cộng sản thế giới dốc toàn lực để chuẩn bị những cuộc khởi nghĩa vũ trang nhưng đều thất bại. Do đó, trong thập niên 40, họ đã lợi dụng cuộc chiến chống phát-xít Đức và giới quân phiệt Nhật, và trong hai thập niên 50 và 60, họ đã nhân danh những cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc để tạo dựng những đội du kích chính qui, dần dần biến thành những đạo quân thực thụ để giúp các Đảng Cộng sản cướp chính quyền tại nhiều xứ như Nam Tư, Trung Hoa, Bắc Hàn…

Tuy nhiên, phải đương đầu với sự chống đối của các thế lực thân Hoa Kỳ, thất bại của phong trào “du kích” Nam Mỹ đã khiến một số phe, nhóm cộng sản nhận thấy họ nên trở lại những phương pháp khủng bố “truyền thống”. Lấy danh nghĩa “đấu tranh giải phóng dân tộc”, ở nhiều nơi trên thế giới, khủng bố và chiến tranh du kích đã được hòa quyện một cách “hữu hiệu” trong các hành động vũ trang, như trong trường hợp Mặt trận Giải phóng Dân tộc Algeria hoặc các tổ chức khủng bố Palestine.

Có thể tranh luận với các luận điểm trên của tác giả Rémi Kauffer, tuy nhiên, lần giở kho lưu trữ mật được “bạch hóa” sau khi Liên Xô sụp đổ, có thể thấy trong không ít trường hợp, Liên bang Xô-viết đã trợ giúp và ủng hộ một cách hữu hiệu các nhóm khủng bố ở Trung Đông và Mỹ – La Tinh.

Đặc biệt, trong nhiều năm liền, Ilich Ramirez Sanchez, một trùm khủng bố khét tiếng từng hoành hành ngang dọc ở các nước Ả Rập và phương Tây, đã được sự che chở của hầu hết các quốc gia “xã hội chủ nghĩa” ở Đông Âu: bằng những tấm thông hành và hộ chiếu giả, y đã sử dụng thủ đô Budapest (Hungary) như một địa bàn chính yếu để tổ chức và tham gia các vụ khủng bố đẫm máu.

Dầu vậy, cần phải nói là bản thân các quốc gia “xã hội chủ nghĩa” (cũ) ít khi đứng ra tổ chức khủng bố, vì mức độ mạo hiểm quá lớn. Một ngoại lệ là trường hợp Bắc Hàn: trong những năm tháng căng thẳng dưới thời “Chiến tranh lạnh”, xứ này đã thường xuyên cử các mật vụ ra nước ngoài để ám sát, giết chóc, bắt cóc và thực hiện những hành vi khủng bố, nhất là đối với các nhân vật Nam Hàn.

Nhiều phụ nữ Nhật đã bị bắt cóc và đưa về Bình Nhưỡng để đào tạo thành những điệp viên kiêm khủng bố. Đó là chưa nói đến chuyện trong hai thập niên 60 và 70, Bắc Hàn là nơi ẩn mình của vô số nhóm khủng bố Nhật, Palestine, Phillippines…, với một mục tiêu chính yếu là “lật đổ chế độ tư bản thối nát”. Có thể nói trong một thời gian dài, Bắc Triều Tiên là quốc gia cộng sản duy nhất đã chủ trương khủng bố một cách có hệ thống ở cấp nhà nước.

Trong số các hành động khủng bố đẫm máu nhất của Kim Nhật Thành, cần phải kể đến vụ ám sát 16 người xảy ra ở Rangun (trong số đó có bốn bộ trưởng Nam Hàn), hoặc vụ nổ máy bay Hãng hàng không Korean Airline ngày 29-11-1987, gây nên cái chết của 115 hành khách vô tội.

Kim Hyun Hee là một trong hai thủ phạm chính của vụ nổ máy bay nói trên. Cùng một điệp viên đứng tuổi và dày dạn kinh nghiệm (Kim Soung Ir), người phụ nữ trẻ trung (25 tuổi) và xinh đẹp đó được nhận nhiệm vụ phải “dạy cho Hán Thành một bài học”: mục đích chính của vụ khủng bố là hạ uy tín Nam Hàn, khiến nước này “mất mặt” và chứng tỏ cho thế giới thấy rằng Hán Thành không đủ sức để giữ gìn an ninh cho Thế vận hội 1988, sẽ được tổ chức sau đó ít tháng.

Tuy nhiên, ý định đó của nhà độc tài Kim Nhật Thành đã hoàn toàn phá sản. Thế vận hội Hán Thành 1988 thành công mỹ mãn, trở thành một biểu tượng của hòa bình và hữu nghị, khi các vận động viên “tư bản” và “xã hội chủ nghĩa” lại bắt tay nhau trên tinh thần bằng hữu và thể thao sau hai kỳ Olympic không trọn vẹn (1980: Moscow, và 1984: Los Angeles).

Sau vụ đặt bom, nhóm khủng bố bị phát hiện: Kim Soung Ir uống độc dược tự tử, còn Kim Hyun Hee định tẩu thoát nhưng bị bắt giam. Sau một thời gian dằn vặt nội tâm và đấu tranh với chính mình, cô gái trẻ tuổi đã cung khai mọi sự trước nhà chức trách Nam Hàn. Về sau, họ Kim đã thuật lại chi tiết những hoạt động gián điệp và khủng bố của mình trong cuốn hồi ký “Giọt lệ trong hồn” (The Tears Of My Soul, 1993), khiến thế giới phải kinh hoàng trước sự tàn ác của các nhà lãnh đạo Bắc Hàn.

Cho dù, vì những lý do dễ hiểu, cuốn hồi ký chưa thể nói lên hết được những gì tại hậu trường các sự kiện của 20 năm trước, nhưng đây là một nguồn tư liệu có độ xác tín tương đối cao về một xã hội, một thể chế khép kín mà thế giới có rất ít thông tin. NCTG xin giới thiệu đến quý độc giả “Giọt lệ trong hồn”, thông qua bản dịch tiếng Hung (“Kémek iskolája: Egy terroristanő vallomásai”, fordította: Gálvölgyi Judit, JGX Kiadó, Budapest 1994).

Tựa: Giọt lệ trong hồnTác giả: Kim Huyn HeeDịch giả: Trần LêNguyên tác: The Tears Of My Soul © 1993 by Kim Huyn HeeLink: https://nhipcauthegioi.hu/ LỜI NÓI ĐẦUNgày 26 tháng Tư 1989. Hán Thành, Nam Hàn.Tôi ngồi trong căn phòng đợi u uất, xám xịt dành cho các bị cáo, nghẹn thở chờ đợi bản án. Ngoài hành lang dẫn đến phòng xét xử, đám đông giận dữ chen lấn bên cánh cửa, tôi sợ họ sẽ tràn vào phòng. Tiếng gào thét đáng ghét vang lên, dường như cả tòa nhà cũng rung động trước những lời nguyền rủa.Sát nhân, sát nhân, sát nhân…Tôi chắp hai tay, toàn thân run rẩy. Những lời hò hét ấy dành cho tôi.Không. Người ta hò hét với tôi.Trong khi run lên vì những lời kêu la, tôi lại nghĩ đến các vụ án xét xử những kẻ phản bội ở Tòa án Nhân dân ngay sau khi nước Triều Tiên vừa thoát khỏi ách thống trị của Nhật. Giờ đây tôi mới hiểu bầu không khí hồi ấy cũng kinh hoàng biết nhường nào đối với những kẻ bị xét xử.Mặc dù trong phòng còn có những người khác – một bác sĩ, một nữ y tá và ba điệp viên đặc biệt, hầu như sống cùng tôi trong những năm trở lại đây -, chưa bao giờ tôi cảm thấy cô độc hơn lúc này. Cho dù tôi cảm thấy những con người ấy rất gần gũi với tôi và họ cũng cảm thấy như vậy, điều này không quan trọng; tôi chờ đợi bản án, chứ không phải họ. Trong giây phút đó, tôi vô cùng ghen tị vẻ hồn nhiên của họ, tương lai của họ và một nỗi buồn ghê gớm xé lòng tôi.Để tự an ủi, tôi cố gắng nhắc lại những dòng “Thánh Kinh” mà trước đây cha tuyên úy đã viết cho tôi, nhưng rồi cánh cửa bật mở và bốn cảnh sát bước vào trong bộ quân phục được hồ cứng, đeo phù hiệu lấp lánh, để đưa tôi vào phòng xử án. Họ bao quanh để bảo vệ tôi, như thế, họ cùng tôi chen chúc qua đám đông nhộn nhạo đang phát khùng. Căn phòng lập tức bùng nổ. Khi đó, lần đầu tiên tôi xuất hiện trước công chúng vì những cuộc xét xử không diễn ra công khai, chỉ đến khi tuyên án người ta mới cho quần chúng vào. Mọi người như một bầy ác thú bị bỏ đói, giận dữ, những lời nhục mạ, nguyền rủa trút như mưa lên đầu tôi. Nếu có thể, họ sẵn sàng xé tôi thành nhiều mảnh.- Con nặc nô khốn nạn! – một phụ nữ đứng tuổi ngồi ở những hàng đầu suýt xoa. – Mày đã sát hại đứa con trai độc nhất của tao. Bây giờ ai là người chăm sóc tao đây?Tôi cảm thấy thời gian như dừng lại trong quãng đường đến ghế bị cáo và khi rốt cục được ngồi xuống, tôi đã không thể tự chủ nổi. Tim tôi đập loạn xạ, người tôi run lẩy bẩy như cầy sấy. Tôi bật khóc nức nở và thầm thì nhắc đi nhắc lại một từ duy nhất: mẹ, mẹ ơi!Dù mẹ có hình dung một số phận thế nào đi nữa cho con gái mẹ, chắc hẳn mẹ không nghĩ đến cảnh tượng này. Mẹ đã nuôi dạy tôi với tình cảm trừu mến khôn cùng và sự tận tâm hoàn toàn, và tôi cảm thấy tôi đã phản bội mẹ tôi. Trong khoảng khắc đó, tôi nghĩ đến cảnh mẹ tôi cẩn thận mặc bộ đồng phục nhà trường cho tôi, mẹ đính những ngôi sao chính tay mẹ làm lên áo quần tôi. Giá giờ đây mẹ được thấy tôi, hẳn tim mẹ sẽ ngừng đập.Nhưng có một điều còn tồi tệ hơn thế nữa. Chẳng những tôi đã phản bội mẹ tôi mà tôi còn phản bội tổ quốc tôi. Chính phủ tôi chắc hẳn sẽ coi lời khai báo của tôi cho chính quyền Nam Hàn là một sự phản bội đê tiện nhất. Vì hành vi phản bội ấy, chẳng những tôi bị hắt hủi mà gia đình tôi chắc chắn cũng bị giam giữ trong một trại cải tạo lao động kinh khủng nào đó, và họ sẽ phải chịu đựng ở đó đến cuối đời. Tôi đã phá hỏng chẳng những đời tôi, mà cả đời họ nữa.Bắt đầu những thủ tục hình thức, nhưng tôi không làm sao có thể chú ý đến chúng. Tôi hoàn toàn chắc chắn là người ta sẽ kết án tử hình tôi. Tôi đã làm nổ chuyến bay 858 của Hàng Hàng không Triều Tiên (Korean Air Line), tôi phải chịu trách nhiệm về cái chết của 115 người. Thật đặc biệt, nhưng cho đến khi tôi chưa bước chân vào căn phòng xử án có bầu không khí sôi động, tôi chưa nhận thức được đày đủ rằng tôi đã làm một việc kinh khủng đến mức nào. Mặc dù tôi đã đặt bom trên máy bay, tôi không nhìn tận mắt vụ nổ cũng như tôi không thấy địa điểm xảy ra tai họa và cho đến giờ, bằng một cách nào đó, tôi vẫn cảm thấy tôi chẳng dính dáng gì đến hành động này, như thế nó đã chẳng xảy ra hoặc tôi cũng không phải chịu trách nhiệm thực sự về điều đó. Nhưng khi nhìn thấy thân nhân những nạn nhân của tôi trong phòng xử án, cuối cùng tôi mới bắt đầu cảm nhận sâu sắc tính rùng rợn trong tội trạng của tôi. Tôi không dám liếc nhìn xuống cử tọa. Bởi lẽ tôi đã phá hỏng cuộc đời họ. Tôi không cảm thấy tôi có đủ nghị lực, đủ dũng cảm để làm điều đó.Vài người phụ nữ đứng tuổi đã gây cho tôi nỗi dày vò kinh khủng nhất, những người này vẫn bám vào tia hy vọng rằng thực ra tai họa đã không xảy ra, rằng chính phủ Nam Hàn đang giữ kín các thân nhân của họ ở một nơi nào đó, nhưng họ vẫn sống.Tôi khóc nức nở. Tôi muốn ôm chầm những con người đó, muốn nói cho họ hay tôi hối hận biết nhường nào vì hành động tôi đã làm.(NCTG) Trong công trình sử học “Sách đen về chủ nghĩa cộng sản” (Le livre noir du communisme, Robert Laffont, Paris 1997), tác giả Rémi Kauffer – một chuyên gia về tình báo và khủng bố – đã dành bảy chương sách để nói về mối quan hệ giữa các thể chế “cộng sản hiện thực” (hiểu theo nghĩa: các thể chế tự nhận mình là “cộng sản”, không nhất thiết phải tuân thủ các nguyên tắc của chủ nghĩa Marx) và chủ nghĩa khủng bố.Tác giả cuốn sách trên khẳng định: trong hai thập niên 20 và 30, phong trào cộng sản thế giới dốc toàn lực để chuẩn bị những cuộc khởi nghĩa vũ trang nhưng đều thất bại. Do đó, trong thập niên 40, họ đã lợi dụng cuộc chiến chống phát-xít Đức và giới quân phiệt Nhật, và trong hai thập niên 50 và 60, họ đã nhân danh những cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc để tạo dựng những đội du kích chính qui, dần dần biến thành những đạo quân thực thụ để giúp các Đảng Cộng sản cướp chính quyền tại nhiều xứ như Nam Tư, Trung Hoa, Bắc Hàn…Tuy nhiên, phải đương đầu với sự chống đối của các thế lực thân Hoa Kỳ, thất bại của phong trào “du kích” Nam Mỹ đã khiến một số phe, nhóm cộng sản nhận thấy họ nên trở lại những phương pháp khủng bố “truyền thống”. Lấy danh nghĩa “đấu tranh giải phóng dân tộc”, ở nhiều nơi trên thế giới, khủng bố và chiến tranh du kích đã được hòa quyện một cách “hữu hiệu” trong các hành động vũ trang, như trong trường hợp Mặt trận Giải phóng Dân tộc Algeria hoặc các tổ chức khủng bố Palestine.Có thể tranh luận với các luận điểm trên của tác giả Rémi Kauffer, tuy nhiên, lần giở kho lưu trữ mật được “bạch hóa” sau khi Liên Xô sụp đổ, có thể thấy trong không ít trường hợp, Liên bang Xô-viết đã trợ giúp và ủng hộ một cách hữu hiệu các nhóm khủng bố ở Trung Đông và Mỹ – La Tinh.Đặc biệt, trong nhiều năm liền, Ilich Ramirez Sanchez, một trùm khủng bố khét tiếng từng hoành hành ngang dọc ở các nước Ả Rập và phương Tây, đã được sự che chở của hầu hết các quốc gia “xã hội chủ nghĩa” ở Đông Âu: bằng những tấm thông hành và hộ chiếu giả, y đã sử dụng thủ đô Budapest (Hungary) như một địa bàn chính yếu để tổ chức và tham gia các vụ khủng bố đẫm máu.Dầu vậy, cần phải nói là bản thân các quốc gia “xã hội chủ nghĩa” (cũ) ít khi đứng ra tổ chức khủng bố, vì mức độ mạo hiểm quá lớn. Một ngoại lệ là trường hợp Bắc Hàn: trong những năm tháng căng thẳng dưới thời “Chiến tranh lạnh”, xứ này đã thường xuyên cử các mật vụ ra nước ngoài để ám sát, giết chóc, bắt cóc và thực hiện những hành vi khủng bố, nhất là đối với các nhân vật Nam Hàn.Nhiều phụ nữ Nhật đã bị bắt cóc và đưa về Bình Nhưỡng để đào tạo thành những điệp viên kiêm khủng bố. Đó là chưa nói đến chuyện trong hai thập niên 60 và 70, Bắc Hàn là nơi ẩn mình của vô số nhóm khủng bố Nhật, Palestine, Phillippines…, với một mục tiêu chính yếu là “lật đổ chế độ tư bản thối nát”. Có thể nói trong một thời gian dài, Bắc Triều Tiên là quốc gia cộng sản duy nhất đã chủ trương khủng bố một cách có hệ thống ở cấp nhà nước.Trong số các hành động khủng bố đẫm máu nhất của Kim Nhật Thành, cần phải kể đến vụ ám sát 16 người xảy ra ở Rangun (trong số đó có bốn bộ trưởng Nam Hàn), hoặc vụ nổ máy bay Hãng hàng không Korean Airline ngày 29-11-1987, gây nên cái chết của 115 hành khách vô tội.Kim Hyun Hee là một trong hai thủ phạm chính của vụ nổ máy bay nói trên. Cùng một điệp viên đứng tuổi và dày dạn kinh nghiệm (Kim Soung Ir), người phụ nữ trẻ trung (25 tuổi) và xinh đẹp đó được nhận nhiệm vụ phải “dạy cho Hán Thành một bài học”: mục đích chính của vụ khủng bố là hạ uy tín Nam Hàn, khiến nước này “mất mặt” và chứng tỏ cho thế giới thấy rằng Hán Thành không đủ sức để giữ gìn an ninh cho Thế vận hội 1988, sẽ được tổ chức sau đó ít tháng.Tuy nhiên, ý định đó của nhà độc tài Kim Nhật Thành đã hoàn toàn phá sản. Thế vận hội Hán Thành 1988 thành công mỹ mãn, trở thành một biểu tượng của hòa bình và hữu nghị, khi các vận động viên “tư bản” và “xã hội chủ nghĩa” lại bắt tay nhau trên tinh thần bằng hữu và thể thao sau hai kỳ Olympic không trọn vẹn (1980: Moscow, và 1984: Los Angeles).Sau vụ đặt bom, nhóm khủng bố bị phát hiện: Kim Soung Ir uống độc dược tự tử, còn Kim Hyun Hee định tẩu thoát nhưng bị bắt giam. Sau một thời gian dằn vặt nội tâm và đấu tranh với chính mình, cô gái trẻ tuổi đã cung khai mọi sự trước nhà chức trách Nam Hàn. Về sau, họ Kim đã thuật lại chi tiết những hoạt động gián điệp và khủng bố của mình trong cuốn hồi ký “Giọt lệ trong hồn” (The Tears Of My Soul, 1993), khiến thế giới phải kinh hoàng trước sự tàn ác của các nhà lãnh đạo Bắc Hàn.Cho dù, vì những lý do dễ hiểu, cuốn hồi ký chưa thể nói lên hết được những gì tại hậu trường các sự kiện của 20 năm trước, nhưng đây là một nguồn tư liệu có độ xác tín tương đối cao về một xã hội, một thể chế khép kín mà thế giới có rất ít thông tin. NCTG xin giới thiệu đến quý độc giả “Giọt lệ trong hồn”, thông qua bản dịch tiếng Hung (“Kémek iskolája: Egy terroristanő vallomásai”, fordította: Gálvölgyi Judit, JGX Kiadó, Budapest 1994).

Xem thêm:   [Share English] Talking about Daily Routines #Sharespace #sharesucess

Xem thêm :  Top 11 iCloud Bypass Tools to Remove iCloud Lock Easily


Tìm kiếm với từ khoá:



      

      Share

     

 27.06.2017, 05:05

Hình đại diện của thành viên

Số 15

☆~ Số 15 ca ~☆

 

Ngày tham gia: 14.10.2015, 23:36
Bài viết: 3081
Được thanks: 2108 lần
Điểm:

7.62

Tài sản riêng:

10

Re: [Hồi ký] Giọt lệ trong hồn – Kim Huyn Hee – Điểm:

Đang tải Player đọc truyện…

Tốc độ đọc truyện:

0.90x

(Đóng góp ý kiến về player nghe đọc truyện)

CHƯƠNG MỘT

Mỗi lần nghĩ đến những đứa trẻ hàng năm được sinh ra ở Bắc Triều Tiên và những em bé chào đời ở đó trong vòng bốn chục năm trở lại đây, từ khi đất nước được tự do khỏi ách thống trị của Nhật Bản, lòng tôi lại tràn đầy nỗi giận dữ. Người ta sẽ dạy dỗ cho mỗi đứa trẻ đúng những gì mà tôi đã được học, rồi chúng cũng sẽ tin vào những lời lẽ dối trá mà tôi đã từng tin. Thật là một tổn thất ghê gớm! Còn khủng khiếp hơn nữa là điều này có thể xảy ra. Nhưng dù sao, nó cũng giải thích được phần nào cái lý do đã thúc đẩy tôi hành động như thế.

Tôi sinh ngày 27 tháng Giêng 1962. Vì tôi là con đầu của mẹ tôi, mọi người, nhất là ông bà tôi đều mong con trai. Như thế, khi tôi chào đời, mọi người cảm thấy thất vọng.

Tôi được sinh ra tại nhà ông bà ngoại ở Chang Song. Khi đó cha tôi ở xa, ông bà tôi giúp đỡ cha tôi chăm sóc tôi. Chẳng bao lâu họ thôi thất vọng, mẹ tôi kể rằng họ yêu quý tôi ngay và chăm tôi như một con búp-bê quý giá.

Cha tôi giữ một chức quan trọng gì đó trong Bộ Ngoại giao mà sau này tôi cũng không biết thêm được mấy. Trở về sau chuyến công tác bên kia bờ đại dương và nhìn thấy tôi lần đầu tiên, cha tôi đã dịu dàng và quý mến tôi như ông bà tôi và ông giữ tình cảm ấy đến thời gian trước đây bốn năm, khi đó tôi thấy ông lần cuối.

Theo thước đo của Nam Hàn thì chúng tôi không được liệt vào hạng trung lưu, nhưng theo chuẩn mực của Bắc Triều Tiên thì chúng tôi thuộc giới được ưu đãi. Chẳng hạn, lúc nào ở nhà tôi cũng có dầu ăn, chúng tôi có thể rán bất cứ thứ gì vào bất cứ lúc nào và điều đó được coi là xa hoa. Chỉ sau này tôi mới biết là ở miền Nam, dầu ăn là thứ thông thường và bất cứ ai cũng có thể rán thịt.

Chúng tôi sống ở Bình Nhưỡng, thủ đô Bắc Triều Tiên, trong một căn hộ nhỏ nhưng chúng tôi cảm thấy vô cùng may mắn vì gia đình tôi được ở riêng. Đa số những cán bộ ở tầm cha tôi đều được phân hộ cá nhân nhưng trong giới công nhân, nhiều gia đình sống chung một mái nhà là điều thường tình, đôi khi hàng chục gia đình phải dùng chung một nhà tắm.

Chừng một năm sau khi chào đời, cha tôi được cử đi Cuba và tôi đã trải qua những năm tháng tiếp tới ở La Havanna, tại đó chúng tôi sống cùng một phố với tòa đại sứ. Khi đó, Fidel Castro mới được bầu làm chủ tịch được ít lâu, và dù bầu không khí chính trị có phần hơi hỗn loạn, Cuba cũng được coi là nước phát triển hơn nhiều so với Bắc Triều Tiên. Chúng tôi sống cùng các gia đình nhân viên sứ quán khác trong một dinh thự khổng lồ, trước cách mạng vốn thuộc quyền sở hữu của một gia đình tư sản giàu có. Tòa nhà bị giản lược hóa và bị sửa lại vì thời xưa, nó được trang hoàng bởi nhiều pho tượng quý giá và các đồ vật khác, ví dụ những chùm đèn pha lê và bàn ghế mạ vàng. Những thứ này bị chuyển đi để tòa nhà không còn mang tính chất tư sản.

Thời đó, Cuba tự do hơn nhiều so với Bắc Triều Tiên và chúng tôi sống tương đối thoải mái. Sau này, mẹ tôi thường nói rằng ở Cuba, bà đã trải qua những năm tháng đẹp đẽ nhất của cuộc đời mình. Bà thích đi mua bán ở các siêu thị, tại đó chúng tôi luôn sững sờ vì có rất nhiều thực phẩm. Chưa được biết những nơi khác, tôi cứ ngỡ rằng trẻ con ở mọi nơi đều được sống như thế.

Mỗi trưa, một chiếc xe kem lại đi qua trước nhà tôi và tôi luôn chạy xuống, mang theo ít tiền lẻ.

– Heladero! Heladero! (Kem, kem ơi!) – tôi gào lên.

Mẹ tôi đặt cho tôi biệt hiệu Vua sô-cô-la vì tôi khoái sô-cô-la vô cùng.

Chúng tôi hay được mời đến những bữa tối ngoại giao và tôi rất chú ý đến những người lạ da trắng và da đen. Đặc biệt tôi mê các vị khách tóc vàng, tôi thấy họ khác thường và vô cùng lạ lẫm. Cùng lúc ấy, các nhân viên người Cuba làm việc trong sứ quán chúng tôi rất quý mến tôi, họ thường cưng nựng và bế tôi vào lòng.

Trên tầng một căn nhà chúng tôi ở, có một chiếc đàn dương cầm và ngày nào mẹ tôi cũng dạy tôi chơi. Bà học dương cầm từ thủa nhỏ và khá có tài. Sau này, khi trở về Bắc Triều Tiên, tôi được biết rằng tại đây hoàn toàn không thể có chuyện một gia đình thường dân lại có đàn dương cầm trong nhà. Chỉ những ai được phép học đàn để trở thành nghệ sĩ dương cầm chuyên nghiệp mới được quyền có đàn.

Những năm tôi ở Cuba là thời gian hạnh phúc như trong mộng. Tôi đùa nghịch cùng với những đứa trẻ khác, đáng nhớ nhất trong số đó là Kim Dzha Bong, con trai ông đại sứ. Thằng này hay đánh tôi để tiêu khiển, lúc nào nó cũng hành hạ tôi. Nó từng dùng đũa chọc thủng tấm đệm cao su mà tôi được tặng nhân ngày sinh nhật. Nếu tôi không muốn để ý đến nó, nó ra đứng trước nhà và bắt đầu gào lên:

– Hyun Hee, chơi với tớ đi!

Cứ thế, nó dai như đỉa: nó nhắc đi nhắc lại hàng trăm lần đến khi rốt cục tôi phải nhượng bộ và ra khỏi nhà.

Nhiều năm sau chúng tôi gặp lại nhau ở Bắc Triều Tiên, khi đó tôi là học sinh trung học. Một ngày, chúng tôi thấy nhau trên phố nhưng trước khi tôi kịp phản ứng, Kim bối rối liếc nhìn tôi và vội vã bước đi. Tôi biết cậu ta nhận ra tôi, dễ thấy là cậu ta cũng công nhận rằng thời xưa cậu từng là một thằng bé kinh khủng đến mức nào và tôi lấy làm thỏa mãn về điều đó.

Ấn tượng thuộc loại đẹp nhất trong thời kỳ này là vào một ngày kia, tôi thấy cánh cửa thông lên tầng thượng để ngỏ. Tôi đưa Hyun Ok, em gái tôi, cùng một vài đứa trẻ khác lên chơi trên đó. Chúng tôi ngồi trên gác thượng mấy giờ liền, thõng chân vung vẩy và hướng tầm mắt nhìn ra khoảng không xa xăm. Rồi một công nhân xây dựng người Cuba phát hiện ra chúng tôi, ông ta báo cho cha mẹ chúng tôi, mọi người mặt mũi tái nhợt nhào lên đưa chúng tôi về nơi an toàn.

Ngay từ những ngày tháng đẹp đẽ đó, chúng tôi đã bị nhồi sọ bởi những lời dạy của Kim Nhật Thành. Những câu đầu tiên mà chúng tôi học thuộc lòng là: “Chúng em biết ơn Kim Nhật Thành, Lãnh tụ Vĩ đại của chúng em”. Chúng tôi học căm thù mỗi khi nghe từ Nước Mỹ, ngay những trẻ nhỏ xíu cũng căm thù Mỹ sôi sục. Ở Bắc Triều Tiên, nước Mỹ được nhắc đến như “kẻ thù truyền kiếp, không đội trời chung”. Trong thời gian ở Cuba, cha tôi hay nói đến “cuộc tấn công đe dọa của đế quốc Mỹ”. Một lần, trên bờ biển (biển là một từ màu nhiệm đối với tôi, nó gợi nhớ những cồn cát vô tận và nước biếc) cha tôi chỉ vào một mảnh đất rất xa xôi nào đó ở đường chân trời mà tôi không thấy mấy.

– Đằng kia là Mỹ đấy, Hyun Hee ạ, đó là nơi tồi tệ nhất trên thế gian này.

Những lời của ông khiến tôi hoảng hồn. Tôi bắt đầu thấy sợ: nếu chiếc đệm cao su của tôi bị thả trôi và tôi bị dạt sang Mỹ thì sao. Tôi còn sợ cả những chai lọ và những vỏ hộp rỗng mà nước biển đánh vào bờ vì người ta bảo chúng từ Mỹ tới. Từ dạo đó trở đi, ít khi tôi dám mò xuống bờ biển.

Chúng tôi ở Cuba năm năm trước khi cha tôi bị triệu hồi về Bình Nhưỡng, trong thời gian đó em trai Hyun So của tôi cũng chào đời. Trước chuyến về nước, mẹ tôi đưa tôi đi phi-dê, bà nói ở Bắc Triều Tiên con sẽ không được làm đầu đâu. Lúc đó tôi còn chưa biết rằng cuộc đời tôi sẽ đổi thay vĩnh viễn.

Trở về Bình Nhưỡng, tôi được đăng ký vào Trường Phổ thông Cơ sở Hashin. Về thực chất, tại đây tôi mới bắt đầu được giáo dục về ý thức hệ. Các môn học chỉ chiếm non nửa thời gian của chúng tôi. Phần còn lại của ngày, chúng tôi học hỏi sự nghiệp của Lãnh tụ Vĩ đại Kim Nhật Thành. Chúng tôi học thuộc lòng bài hát “Ngu xuẩn”, kể về chiến thắng của Kim Nhật Thành trước quân Nhật bao nhiêu năm về trước. Người giáng cho lũ Nhật một đòn chí mạng khiến chúng chỉ còn biết ôm đầu chạy về nước, không kịp mang theo tử thi những kẻ bỏ mạng.

Ngoài những giờ học đầy tính tư tưởng, mọi học sinh đều phải tham gia nhiều hoạt động và những hoạt động này được tăng cường tới mức thường thường chúng tôi chỉ về đến nhà sau mười giờ tối.

Mùa đông năm thứ ba, người ta chọn mười đứa trong số chúng tôi để ca hát trong một buổi lễ thanh niên và họ nói đích thân Kim Nhật Thành cũng sẽ tới dự. Chúng tôi học hát trong hai tháng trời, bài hát có cái tựa đề “Chúng em yêu bộ đồng phục mà Lãnh tụ Vĩ đại đã trao cho”. Trong thời kỳ ấy, sau những buổi tập dượt tôi luôn phải chờ chuyến xe buýt đêm khuya, đôi khi tôi phải chờ đợi nhiều giờ đồng hồ khiến rốt cục chân tôi lạnh cóng. Tuy vậy, trong thời gian thử thách này, mặc dù nhớ nhà nhưng không bao giờ tôi phàn nàn vì tôi biết được hát cho Lãnh tụ nghe là một vinh dự lớn lao biết mấy!

Trong năm đó có một trận lụt lớn, do đó những người sống ở tầng một ngôi nhà chúng tôi phải chuyển lên ở tạm cùng các gia đình khác tại các căn hộ trên tầng cao hơn. Bọn trẻ coi đây là một trò giải trí, chúng tôi ở suốt đêm trên tầng thượng và nhìn con nước dâng cao dần.

Ít lâu sau trận lụt, người ta lưu truyền một tin vịt là chiến tranh đã nổ ra với Mỹ vì con tàu chiến Pueblo bị đánh chìm. Ở Bình Nhưỡng, bầu không khí ngày một căng thẳng, mọi gia đình bắt đầu gói ghém quần áo và lương thảo, cả thành phố chuẩn bị đi sơ tán. Các khẩu hiệu, biểu ngữ xuất hiện trên đường phố: LẤY THÙ ĐỊCH TRẢ LỜI THÙ ĐỊCH, LẤY KHỦNG BỐ ĐÁP KHỦNG BỐ. Chuẩn bị cho chiến trận, người lớn cố gắng đến kiệt sức nhưng bọn trẻ thì được dịp tiêu khiển thỏa thích. Chúng tôi cuỗm đi những đồ ăn đã được gom góp và thích thú theo dõi hậu quả. Đôi lúc, chúng tôi bị đánh thức bởi những hồi còi báo động – thúc mọi người tắt đèn – và khi đó chúng tôi lại leo lên gác thượng nhìn thủ đô Bình Nhưỡng chìm trong bóng tối. Khi khác, thường thường vào hồi bốn giờ sáng, các hồi còi phòng không lên tiếng, chúng tôi bổ nhào khỏi giường và lao đến căn hầm ở sườn đồi gần đó.

Trong thời gian này, hai cố vấn gần gũi của Kim Nhật Thành là Ho Bong Hak và Kim Chang Bong bị thất sủng. Chính phủ ra một chỉ thị xóa tên tuổi họ khỏi các bộ sách giáo khoa. Theo phong cách Orwell đặc thù, đồng thời, lũ trẻ con phải dùng mực đen hoặc dao díp để xóa bỏ tên họ trong sách vở. Họ trở thành những con người không tồn tại.

Vì lẽ hoạt động tập thể quan trọng hơn học tập nên chúng tôi bỏ rất nhiều thời gian để hoàn thành những nhiệm vụ trong Thanh niên quân. Khi Kim Nhật Thành ra chỉ thị cấm phụ nữ mặc quần vào mùa hè, bọn trẻ con được đi tuần trên đường phố và kiểm tra trang phục những khách qua đường. Nếu một phụ nữ vẫn mặc quần hay ai đó không đeo huy hiệu Kim Nhật Thành, lũ trẻ chúng tôi lục vấn tên họ và lập tức báo cáo trường hợp đó cho cấp trên, nơi họ làm việc.

Chúng tôi được dạy rằng tổ quốc chúng tôi chỉ có thể chiến thắng đế quốc Mỹ nếu Bắc Triều Tiên mua vũ khí ngoại quốc, do đó chúng tôi phải bỏ nhiều giờ đồng hồ đi thu nhặt sắt vụn, chai lọ và nhiều loại vật liệu khác, có thể tái chế biến, để bán cho nước ngoài đổi lấy ngoại tệ. Phải thu lượm theo một chỉ tiêu được định trước và nếu có ai không làm nổi việc này, kẻ đó sẽ bị quở trách công khai. Một cuộc thi đua lớn diễn ra xem ai nhặt nhạnh được nhiều hơn.

Xem thêm:   Khái Niệm Cơ Bản Về Văn Biểu Cảm Là Gì? Cách Làm Văn Biểu Cảm

Xem thêm :  Các loại cây thủy sinh không cần đất nền dễ trồng nhất

Chúng tôi còn phải thu lượm da thỏ và chó, ngoài ra, cả dòi bọ nữa (cho đến giờ tôi vẫn không hiểu tại sao). Tìm dòi bọ dễ nhất là ở các hầm phân của hố xí công cộng, tại đó chúng không bị nước cuốn đi và chúng tôi cũng đua nhau kiếm dòi bọ. Chúng tôi cũng phải thu thập cả phân nữa! Khi được một lượng kha khá, người ta chở cho nông dân để ủ, còn những kẻ nhặt nhạnh được xếp hạng theo chất và lượng phân đã thu nhặt. Về sau, khi mọi thứ đều được bán theo phiếu, thứ hạng này tương đối có giá trị.

Nhưng khó khăn nhất vẫn là thu lượm hoa. Bởi lẽ chúng tôi phải hái hoa đặt trước tất cả các pho tượng Kim Nhật Thành trong vùng, và có rất nhiều những bức tượng như thế. Ở Bắc Triều Tiên không có các quần bán hoa nên chúng tôi chỉ có thể hoàn thành chỉ tiêu bằng cách mua chuộc những người làm việc trong các nhà kính trồng hoa trong vùng.

Suốt ngày chúng tôi phải tham gia các hoạt động đủ loại. Ngay trong kỳ nghỉ hè, đi nghỉ cùng gia đình cũng là điều không tưởng! Thay vào đó, chúng tôi phải làm thêm việc trong Thanh niên quân.

Trong thời gian này em trai thứ hai của tôi ra đời, đứa em nhỏ xíu tuyệt vời ấy được cha mẹ tôi đặt cho cái tên là Bam So.

Ấn tượng đặc biệt và tuyệt diệu nhất trong thời thơ ấu của tôi là tôi trở thành tài tử điện ảnh! Một nhà làm phim đến trường tôi tìm một cậu bé và một cô bé cho bộ phim sắp tới; ông ta nhìn thấy tôi và chọn lựa tôi mà tôi không hề biết. Bộ phim có tựa đề như sau: “Yung So và Yun Gok, những người đã tìm thấy tổ quốc xã hội chủ nghĩa của mình”. Cố nhiên theo con mắt phương Tây thì bộ phim hơi kỳ, nhưng tôi thấy khá hấp dẫn vì tôi được chọn để thủ vai Yun Gok.

Tấn bi kịch còm cõi không che giấu được mấy tính chất tuyên truyền của bộ phim. Phim nói về một gia đình bị đoạn tuyệt sau khi Triều Tiên bị chia cắt thành hai nước. Cuối cùng, người mẹ bị lính Mỹ bắt đi, bà phải xa cách khỏi gia đình; đó là hình phạt dành cho bà vì đã che giấu, cưu mang những người lính Bắc Triều Tiên. Về những bộ phim như thế, tôi lại nghĩ đến Orwell – từ sau dạo đó tôi đã có dịp đọc ông -, chúng khiến tôi nhớ đến cái nghi thức mang tên “hai phút căm thù” trong tác phẩm “1984″. Cuối buổi chiếu, khán giả chửi rủa ầm ĩ lính Mỹ, đôi khi họ còn ném đá lên màn ảnh nữa.

Thời đó tôi còn bé để hiểu tất cả những điều này và tôi ngây ngất khi sau thời gian đóng phim, tôi trờ về trường và được đón tiếp như một anh hùng. Khi bộ phim bắt đầu được trình chiếu, tôi trở nên khá nổi tiếng. Mọi người nhận ra tôi ngoài đường, gọi tôi bằng cái tên Yun Gok trong phim. Mẹ tôi giới thiệu tôi cho các vị khách, các thày cô giáo cũng làm thế trong nhà trường. Chỉ có cha tôi là không ưa việc tôi đóng phim và cứ mỗi lần ai đó nhắc đến bộ phim, ông lại cau mày nhăn nhó.

Tôi còn đóng một bộ phim khác nữa. Phim này kể về một thiếu nữ được Quân đội nhân dân cứu mạng trong khói lửa, lúc đó những người lính rút lui về phía Bắc trong cuộc chiến Triều Tiên. Tôi thủ vai cô bạn gái của diễn viên chính. Để trả công, tôi được một chiếc cặp sách mới tinh và mười cuốn vở; chẳng nhiều nhặn gì cho lắm!

Về sau tôi cũng được mời tham gia các phim khác nhưng cha tôi không cho tôi đóng phim. Thay vào đó, tôi chú trọng đến Thanh niên quân. Cứ vào bảy giờ sáng, đài phát thanh duy nhất của Bình Nhưỡng lại chơi bản hành khúc “Thanh niên quân”.

Chúng ta là những anh hùng trẻ tuổi của nước cộng hòa,
Chúng ta sẽ trở thành đội tiên phong của chủ nghĩa cộng sản.
Thanh niên quân, nâng cao lá cờ Đoàn,
Chào mừng Chủ tịch của chúng ta như người cha,
Và tiếp tục vui tươi tiến bước!

Chẳng bao lâu tôi trở thành người phụ trách trong Thanh niên quân và tôi gắng sức để tổ nhóm của tôi trở thành tấm gương cho các tổ khác. Mặc dù chúng tôi khá thành công nhưng không bao giờ tôi có thể duy trì một kỷ luật thực sự, không bao giờ tôi có thể tự nguyện áp đặt lên bạn bè tôi.

Những kết quả trong nhà trường luôn được thông báo một cách công khai. Trong trường, chúng tôi được nhận bốn loại điểm số: điểm cách mạng, điểm học tập, điểm lao động và điểm đạo đức. Trong các giờ cách mạng, ví dụ thày giáo đưa ra một tấm ảnh về cuộc đời Kim Nhật Thành và học sinh phải giải thích những gì mình thấy. Lúc ấy, đứa trẻ mắt ngời lên rạng rỡ, nó nhìn chăm chú vào tấm hình và bắt đầu tuôn ra:

– Trong tấm ảnh này Chủ tịch Vĩ đại của chúng ta đang hạ lệnh truyền bá cuộc đấu tranh vũ trang trên phạm vi toàn thế giới. Chủ tịch Vĩ đại của chúng ta tuyên bố điều đó trong hội đàm của các đại biểu Quân đội nhân dân Cách mạng năm 1930.

Một học sinh, nếu trả lời tốt, sẽ được cho một điểm đỏ cạnh tên cậu ta trong cột “Cách mạng” trên tấm bảng thông báo.

Vì tôi là phụ trách thanh niên, các thày cô thường xuyên tìm đến tôi để yêu cầu tôi giúp họ đưa những biện pháp cảnh cáo các đồng bạn không đạt yêu cầu. Tôi còn nhớ cứ mỗi lần ai đó bị sỉ nhục vì không hoàn thành các chỉ tiêu này khác là từng học sinh trong lớp lại phải nói đôi lời chỉ trích. Tôi luôn cảm thấy lo lắng vào những dịp như thế vì tôi rất ghét trò phê bình bạn bè, nhưng thày giáo nhìn tôi bằng cái nhìn cứng rắn khiến tôi phải cố gắng nói với giọng bình thản:

– Bạn bảo bạn không hoàn thành định mức vì bạn không có thời gian. Thế mà hôm qua tôi vẫn thấy bạn chơi đùa với những đứa khác. Thật khó tin là bạn có thì giờ để chơi mà không có thì giờ làm việc. Lý do bạn nêu ra cho thấy bạn đã vi phạm lời dạy của Lãnh tụ Vĩ đại, Người dạy chúng ta phải trung thực với đời sống tập thể.

Mọi người vỗ tay, thày giáo gật đầu tán thưởng. Tôi không thấy vui khi tôi ngồi trong tư thế cứng đờ để lắng nghe một ả tên là San Yung, cô này cảm thấy hạnh phúc nếu được dịp lăng mạ kẻ khác.

– Đồng chí học sinh, bạn không xứng đáng được học hành trong tình thương yêu của Người cha, vị Chủ tịch của chúng ta. Bạn đáng bị đuổi ngay lập tức khỏi trường.

Hàng tuần, nhưng cuộc hội họp tương tự được tổ chức hai, ba bận. Sau đó, chúng tôi bắt đầu nhìn những người trong gia đình bằng con mắt phê bình. Với chúng tôi, tệ nhất là không tìm ra nổi một thứ gì đáng phê bình.

Trong năm cuối phổ thông trung học, tôi được nhận vào học khoa Sinh vật trường Đại học Kim Nhật Thành. Đó là đại học duy nhất ở Bắc Triều Tiên có thể sánh với các trường Mỹ, nhưng chỉ con cái các cán bộ cao cấp trong chính phủ mới được theo học ở đây. Như trong mọi cơ sở giáo dục khác ở Bắc Hàn, tại đây việc học tập tư tưởng cũng được nhấn mạnh, chủ yếu chúng tôi cũng phải nghiên cứu tư tưởng Kim Nhật Thành.

Trước khi thi tốt nghiệp, tôi tham gia kỳ học quân sự kéo dài nửa năm. Đây là điều bắt buộc đối với mọi học sinh. Khi bắt đầu vào đại học, tôi khoái trá vì mọi thứ đều được tổ chức theo kiểu quân sự. Mỗi lớp học được gọi là trung đội, mỗi tổ bộ môn được gọi là đại đội, nhóm các học sinh tốt nghiệp được gọi là tiểu đoàn, v.v… Chúng tôi gọi giáo viên chủ nhiệm là thiếu úy và gọi trưởng phòng giáo dục là đại úy.

Những người tốt nghiệp Đại học Kim Nhật Thành suốt đời được làm nghề tốt và chỉ những kẻ thật ngoại lệ mới được nhận vào trường. Nhưng dù có được ưu đãi đến đâu đi nữa, tôi cũng thấy khó theo đuổi việc học hành vì phần lớn thời gian rỗi của mình, tôi phải tham gia công việc đồng áng tự nguyện tại một hợp tác xã ở vùng lân cận. Vì vậy, cha tôi khuyên tôi chuyển sang trường Cao đẳng Ngoại ngữ Bình Nhưỡng; trường này cũng đảm bảo chỗ làm việc tốt sau khi học sinh tốt nghiệp, nhất là đối với các nữ sinh. Cha tôi lo liệu cho tôi thi vào trường, tôi thi cử thành công và được vào học khoa tiếng Nhật.

Đây là một quyết định thảm khốc. Nếu tôi không chuyển trường và không học tiếng Nhật, chẳng bao giờ người ta tuyển tôi làm gián điệp. Cố nhiên lúc đó tôi nào có biết sự thay đổi này sẽ có những hậu quả như thế nào…

Tất nhiên kỳ học quân sự bắt buộc vẫn tiếp diễn. Được đưa về những trại huấn luyện ở nông thôn, tại đây chúng tôi tập bắn súng và hành quân trong nhiều ngày dài. Điều này đặc biệt nặng nề đối với phụ nữ nhưng dưới ách thống trị cộng sản, phụ nữ được coi là bình đẳng với nam giới và họ cũng phải trải qua một kỳ huấn luyện ngặt nghèo như nam giới. Thường thường chúng tôi phải thay quần áo trong các nhà vệ sinh chật chội và bông vệ sinh dùng cho mỗi kỳ kinh nguyệt cũng hay thiếu thốn.

Cuộc sống thật khắc nghiệt. Trong nhiều ngày liền chúng tôi hành quân trong những rặng núi non. Chúng tôi học cách nhận biết và sử dụng các loại vũ khí khác nhau, cũng như học lái các loại xe cơ giới dùng trong quân đội. Chế đô ăn uống khá tồi tệ, nhiều người gầy rộc đi. Trong những cuộc hành quân dài dằng dặc, đôi khi tôi cảm thấy như mình không thể đứng vững nổi. Anh thiếu úy tại ngũ, một thanh niên điển trai chừng hai nhăm tuổi, thường chờ tôi và khích lệ:

– Cố lên đi, Hyun Hee, đừng rớt lại! Là con gái thì cũng không phải là cớ để cô tụt hậu. Ở đây chúng tôi đối xử bình đẳng với nam và nữ.

Có điều, tôi nhận thấy người ta coi phụ nữ như những kẻ thụ động chứ không phải chủ động và vì thế, chúng tôi còn bị bắt luyện tập thường xuyên hơn và nghiêm ngặt hơn. Hai loại thước đo này khiến tôi tức giận, nhưng rốt cục tôi cũng cảm thấy mình đủ mạnh và đủ khéo léo như bất cứ một người đàn ông nào.

Sau thời gian tập luyện, chúng tôi đã có thể đi bộ liên tục hơn ba chục cây số với chiếc ba-lô 14 cân. Chúng tôi sử dụng thành thạo súng lục và súng máy, chúng tôi còn biết lái xe tăng nữa. Chúng tôi tập ném lưu đạn, sử dụng cao xạ pháo, chúng tôi biết cách bắn loại tên lửa chống tăng.

Tôi cảm thấy vô cùng nhẹ nhõm khi được trở về ký túc xá ở Bình Nhưỡng và tôi học cật lực để bù lại thời gian nghỉ. Thanh niên nam nữ không được phép hẹn hò nhau nhưng cũng có vài người chấp nhận mạo hiểm. Những ai bị bắt quả tang sẽ bị đuổi học, có người còn bị đưa đi cải tạo lao động tận miền cực Bắc. Chúng tôi phải đi khám bác sĩ đều đặn, là phụ nữ, tôi còn phải khám phụ khoa. Bằng cách đó, các nhà chức trách có thể biết rằng chúng tôi còn trinh.

Nhìn lại, tôi cũng không hiểu khi nào tôi có thì giờ để ngủ nghê. Cuối tuần, chúng tôi giúp việc trong các hầm mỏ và luôn luôn có một cuộc họp cách mạng mà chúng tôi phải tham gia. Thật là một phép màu thực sự khi bên cạnh đó, tôi còn phải học tiếng Nhật, nhưng chẳng mấy chốc tôi đã nói trôi chảy và tôi được những điểm số xuất sắc.

Trong học kỳ hai, khi đó tôi mười tám tuổi, một bận tôi bị triệu lên văn phòng khoa. Một người đàn ông chờ tôi ở đó, chiếc huy hiệu hình quốc kỳ trên ngực áo chứng tỏ ông ta thuộc Trung ương đảng.

– Nữ đồng chí Hyun Hee – ông ta quay về phía tôi khi tôi vừa bước vào phòng -, chắc hẳn đồng chí đã được học hỏi về cuộc đời Lãnh tụ Kính yêu Kim Chính Nhật của chúng ta? Đồng chí có thể nhắc lại một sự kiện nào đó không?

Tôi do dự trong khoảng khắc rồi tôi chợt nhớ đến câu chuyện xảy ra ở vùng núi Pektu, khi Kim Chính Nhật đến thăm chiến địa – nơi cha ông, Kim Nhật Thành đã đạt được một chiến thắng lớn -, và ông lên tiếng động viên các công nhân hãy lao động hăng say hơn để sửa sang hiện trường, và ông còn đưa ra vài chỉ dẫn có ích cho công việc của họ.

Khi tôi vừa dứt lời, người đàn ông hỏi:

– Cha cô làm ở đâu và trên cương vị gì?

Tôi nói.

– Tuyệt vời. Còn một điều nữa. Cô học giỏi chứ?

Ông ta hẳn đã biết điều này vì tôi là thành viên Ủy ban nghiên cứu lịch sử cuộc đời và sự nghiệp của Kim Nhật Thành và chỉ có mười nữ sinh xuất sắc nhất trường mới được tham gia ủy ban này.

– Tất nhiên – tôi đáp, hơi bực dọc.

Ông ta cho tôi ra về. Cũng trong tuần đó, các nữ sinh viên phải xếp hàng trong phòng thể thao để một nhóm đàn ông – đến thăm trường – có thể ngắm nghía chúng tôi. Khi thấy ai đó có vẻ xinh xắn, họ ghi lại tên cô ta.

Khi ra khỏi phòng thể thao, một người đàn ông gọi tôi ra một bên và ra lệnh cho tôi phải có mặt tại tòa nhà thứ nhất của chi bộ đảng vào tuần tới.

Tôi đành phải đến đó và các sĩ quan quân đội đã chờ tôi, họ đặt cho tôi một số câu hỏi. Tôi bối rối, đứng ngồi không yên nhưng tôi cũng lịch sự cúi đầu và cuộc thẩm vấn bắt đầu.

– Bốn nguyên tắc cơ bản của đảng là gì? một sĩ quan hỏi.

– Tôn sùng, tin tưởng, tuyệt đối, chấp thuận vô điều kiện – tôi đáp như một cái máy.

– Tại sao cô học tiếng Nhật?

– Tôi học tiếng Nhật để dân tộc ta chiến thắng Nhật Bản và nước Triều Tiên lại là một.

– Cô sẽ làm gì sau khi ra trường?

– Theo chỉ thị của đảng.

– Rất đúng. Bây giờ cô hãy đọc lại theo trí nhớ chương một cuốn “Hồi tưởng của Kim Dzhung Suk, người bạn đời của Kim Chính Nhật”.

Gần như tôi bắt đầu nói làu làu ngay lập tức. Rõ ràng là người sĩ quan kinh ngạc trước trí nhớ rất tốt của tôi.

– Cô được các điểm số ra sao?

– Xuất sắc, thưa đồng chí.

Anh ta ấn vào tay tôi một đoạn trong cuốn “Hồi ký Kim Nhật Thành” bằng tiếng Nhật và bảo tôi dịch ngay tại chỗ. Tôi dịch không sai một lỗi.

– Tuyệt, tuyệt lắm! – người sĩ quan hồ hởi, ngừng lại một chút rồi tiếp tục nói, giọng trang trọng. – Kim Hyun Hee, cô có sẵn sàng hy sinh vì đảng không? Vì cô phải biết rằng nhiệm vụ đảng giao chẳng những có thể đem đến vinh quang tột đỉnh, mà còn có thể đem lại cái chết cho cô?

Tôi ngạt thở, câu hỏi khiến tôi sững sờ nhưng tôi không để lộ ra ngoài.

– Tất nhiên – tôi cương quyết trả lời. – Tôi sẽ thực hiện tất cả những gì đảng giao phó, cho dù có phải hy sinh đời mình.

Người sĩ quan ghi chép gì đó vào cuốn sổ tay nằm trước mặt anh ta.

– Cô đã có ai tìm hiểu chưa?

– Chưa, thưa đồng chí.

– Tốt. Bây giờ cô đi khám bác sĩ đi. – Tôi được dẫn đến bệnh xá, một bác sĩ khám cho tôi rồi tôi phải chờ đợi. Buổi chiều, tôi lại bị gọi đến một lần nữa.

Người đứng đầu cuộc thẩm vấn – được gọi bằng cái tên “điệp viên đặc biệt Chang” – đứng lên và chìa tay cho tôi bắt.

– Chúc mừng nữ đồng chí Kim Hyun Hee. Đảng đã lựa chọn cô.

Tôi biết lẽ ra tôi phải mừng, nhưng sự hãi hùng và linh cảm xấu bao trùm tôi. Mọi thứ diễn ra quá nhanh gọn. Tất nhiên tôi nắm lấy bàn tay chìa về phía tôi. Tôi cố mỉm cười, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn nhưng thú thực tôi không hiểu những điều này là thế nào.

– Cô thu xếp đồ đạc ngay đi! – Chang nói tiếp. – Cô có thể ở lại với gia đình đêm nay, nhưng ngày mai phải khởi hành rồi.

Ông ta đưa tôi về lại trường, tại đó tôi chỉ có vài phút để từ giã các thày cô giáo. Dễ thấy là họ tự hào vì may mắn của tôi và họ chúc tôi thành công. Trong vòng một giờ đồng hồ, tôi đã có mặt ở nhà: điệp viên đặc biệt Chang đưa tôi về, ông ta thông báo cái tin điếng người với mẹ tôi.

Khi tôi thuật lại cho bà nghe về cuộc thẩm vấn, lập tức tôi thấy bà sững sờ, mặc dù bà rất cố gắng giữ kín. Bà lịch sự mời điệp viên đặc biệt Chang ở lại ăn bữa tối, nhưng ông ta khước từ lời mời. Chang nói sáng mai người ta sẽ đến đón tôi và ông ta bỏ đi.

Các em tôi rất lo lắng khi nghe cái tin này. Tuy nhiên, mẹ tôi vẫn lặng thinh chuẩn bị cho bữa tối. Cuối cùng, bà ngẩng lên nhìn tôi:

– Điều này có nghĩa là con ra đi vĩnh viễn ư?

Tôi do dự trước khi trả lời.

– Con không biết, mẹ ạ.

Bà lại cắm cúi thái rau, rồi thả vào chảo.

– Mẹ hy vọng là cha con sẽ chịu đựng được việc này – bà lên tiếng và không nói thêm một câu nào nữa.

Nhiều giờ trôi qua mà cha tôi vẫn chưa về. Tôi gói ghém đồ đạc. Giữa chừng, tôi lục ra một bức thêu mà mẹ tôi đã làm hồi bà còn học phổ thông trung học. Khi tôi chuyển đến ở ký túc xá, bà cho tôi tấm vải, đối với tôi nó có một giá trị tình cảm lớn lao.

Xem thêm:   Những câu tiểu sử hay về tình bạn thân thiết

Xem thêm :  Vinaresearch lừa đảo hay là trang khảo sát kiếm tiền uy tín của Việt Nam? – Kiếm Tiền Online – Đầu Tư Tài Chính

Tôi quyết định tặng lại bức thêu cho Hyun Ok. Khi trao cho em, tôi cảm thấy dường như tôi cũng trao lại cho nó vị trí của tôi: giờ đây em đã là cô gái đầu trong gia đình, tôi ra đi vĩnh viễn.

– Giữ gìn cẩn thận em nhé! – tôi bảo nó -, và nếu chị về, chị sẽ lấy lại đấy.

Giờ phút đó, cả hai chúng tôi đều khóc như ri, chúng tôi ôm chầm lấy nhau và cứ thế cho đến khi mẹ tôi gọi hai đứa đi ăn tối.

Chỉ đến khoảng nửa đêm cha tôi mới về đến nhà và ông đã biết chuyện gì xảy ra. Cha tôi sửng sốt ghê gớm và nhiều lần, ông đặt đi đặt lại cho tôi nhiều câu hỏi giống nhau như thể ông không hiểu những câu trả lời của tôi. Sau đó, ông im lặng hồi lâu rồi bắt đầu nói bằng một giọng chán nản:

– Ngồi xuống đây con và nghe cha nói, Hyun Hee. Lúc nào cha cũng hy vọng con sẽ thành một người nội trợ đơn thuần, một bà mẹ tốt. Nhưng nếu con người ta có thể hiến dâng đời mình cho đất nước thì đó cũng là một vinh dự lớn. Luôn nhớ điều này con nhé: ngay trong cũi hổ con cũng có thể sống sót nếu con biết cách tập trung tư tưởng thường xuyên. Hãy làm mọi việc có thể, con ạ. Cha rất tự hào vì con.

Mẹ tôi òa khóc, còn tôi về phòng mình với mặc cảm tội lỗi. Tôi ngồi một hồi với các em, chúng tôi xem lại những bức ảnh gia đình và nhắc lại những cảm xúc chung. Tôi buồn vì phải ra đi nhưng tôi cũng biết được đảng chọn lựa là một vinh dự lớn biết bao. Tôi tự nhủ trẻ con, ai chẳng phải rời gia đình vào một lúc nào đó và tôi không thể mong muốn gì tốt hơn.

Ngày hôm sau từ sớm tôi đã tỉnh giấc. Chúng tôi không nói năng gì mấy trong bữa sáng và tôi thấy cặp mắt mẹ tôi thâm quầng vì bà khóc nhiều.

Điệp viên đặc biệt Chang đến vào hồi mười giờ. Ông ta chào cha tôi và tuyên bố:

– Anh đừng lo lắng cho Hyun Hee. Đảng sẽ chăm chút mọi thứ cho nó. Chúng tôi sẽ còn kiếm cả chồng cho cô ấy nữa. Hãy phó mặc cho chúng tôi.

– Cám ơn anh – cha tôi đáp, vẻ trịnh trọng. – Nó đã mang lại niềm tự hào cho gia đình chúng tôi, chúng tôi sẽ không lo ngại gì đâu. Tôi sẽ biết ơn đảng muôn đời.

Làm sao có thể quên được cái ngày tôi rời bỏ gia đình? Cha tôi rầu rĩ nhìn tôi. Mẹ và các em gái tôi khóc sướt mướt; chỉ các em trai tôi là vui vẻ dù tôi biết chúng phải cố gắng lắm.

– Tạm biệt! – mọi người lần lượt nói, như thể người nọ nhấn mạnh lời người kia. Đến nay tôi vẫn còn nghe tiếng nói của họ. Đến nay tôi vẫn còn nghe tiếng vọng ấy.


Tìm kiếm với từ khoá:



      

      Share

     

 28.06.2017, 06:09

Hình đại diện của thành viên

Số 15

☆~ Số 15 ca ~☆

 

Ngày tham gia: 14.10.2015, 23:36
Bài viết: 3081
Được thanks: 2108 lần
Điểm:

7.62

Tài sản riêng:

10

Re: [Hồi ký] Giọt lệ trong hồn – Kim Huyn Hee – Điểm:

Đang tải Player đọc truyện…

Tốc độ đọc truyện:

0.90x

(Đóng góp ý kiến về player nghe đọc truyện)

CHƯƠNG HAI

Cảm giác tự hào tràn ngập lòng tôi khi chiếc xe chở tôi phóng vùn vụt qua ngoại thành Bình Nhưỡng. Mỗi lần xe vượt qua các em bé, chúng lại chào chúng tôi theo kiểu đội viên tiền phong. Khi chúng tôi đến trạm kiểm soát ngoài rìa thành phố, người ta chỉ vẫy ra hiệu cho chúng tôi đi tiếp.

Chúng tôi đi về phía Phyong San, nhưng chiếc xe chợt giảm tốc độ và ngoặt sang một đường đất dẫn đến các giải núi. Sau đó là đến một trạm kiểm soát an ninh, tại đó người lính trực nghiêm trang chào kiểu quân sự. Ẩn sau trạm kiểm soát là một trang trại nông nghiệp: nhiều tòa nhà nằm trên một diện tích khá lớn, người ta nuôi chim cút ở đó. Rời nơi này, con đường ngày càng cách biệt hơn với bên ngoài.

– Cô đã đến những nơi thế này bao giờ chưa? – Chang lên tiếng hỏi. – Tối tối lũ cọp lại bò xuống từ núi.

Tôi không thích cái trò dọa dẫm của ông ta. Tôi liếc nhìn Chang, vẻ giận dữ.

Song ông ta không nhận ra và tiếp tục nói:

– Từ giờ trở đi không bao giờ cô được dùng tên thật của cô. Cô đã trở thành Kim Okhva, đừng quên điều này. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cô cũng không được nhắc đến tên thật của cô, nhất là khi cô gặp những người quen mới.

Sau đó chút ít, chiếc xe dừng lại cánh một tổ hợp nhà và một phụ nữ dáng người cao ráo bước đến trước chúng tôi, tôi áng chừng bà ta chừng năm mươi tuổi. Bà chào tôi và dẫn tôi về phòng. Căn phòng thông với buồng tắm, có bồn tắm đứng và vòi tắm hoa sen, người ta đã chuẩn bị sẵn quần áo mới dành cho tôi. Vùng vẫy trong bồn tắm một hồi, giữa chừng tôi trầm ngâm trước môi trường mới. Sau khi tắm táp xong, tôi đi nằm ngay nhưng suốt đêm tôi không tài nào chợp mắt nổi. Tôi lắng nghe tiếng gió gào rùng rợn giữa những lùm cây, tôi cảm thấy nơi này mới cô quạnh làm sao. Cứ thế, một thân một mình, tôi hoàn toàn khiếp đảm và ngay cả chuyện có lẽ ngoài kia có bầy hổ lang thang cũng không khiến tôi yên lòng. Tôi chỉ thiếp đi vào rạng sáng.

Buổi sáng, khi thức dậy, tôi được một bữa sáng ngon lành nhất kể từ thời tôi ở Cuba: trứng rán, bánh mì rán, sữa, bơ và khoai tây. Bánh mì nhẹ và ngon đặc biệt, loại ấy không thể mua được ở Bình Nhưỡng. Tôi hơi ngượng vì được ăn những thứ hảo hạng như thế.

Sau bữa sáng người ta giới thiệu cô bạn mới cùng phòng của tôi, họ bảo cô ta sẽ là đồng sự của tôi trong quá trình học hỏi. Tên cô là Kim Sukhi, một thanh nữ đẹp, có đôi mắt to và tươi tắn, ít hơn tôi một tuổi. Tròng vòng vài năm tiếp tới, đối với tôi Sukhi như người ruột thịt và không bao giờ tôi có một người bạn gái tốt hơn cô.

Điệp viên đặc biệt Chang bước vào phòng chúng tôi và ngồi xuống ghế.

– Chào hai cô – ông ta mỉm cười với chúng tôi. – Bây giờ, sau khi các cô đã đến đây, tôi có thể nêu ra một số điều lệ. Trong ngày không bao giờ các cô được ra khỏi học viện, buổi tối có thể đi dạo một chút. Trước khi đi, các cô phải báo cáo với bà đầu bếp và phải tránh mọi người lạ nếu giả sử họ đi qua đây: công nhân vận tải, lái xe, v.v… Nếu ra khỏi đây, các cô phải đeo kính râm và mặt nạ – tôi sẽ phát cho các cô -, cạnh đó, phải dùng ô để che mặt nếu gặp gỡ ai đó.

Buổi sáng, tám giờ phải ăn sáng xong. Trước khi đến trường, các cô hãy đọc đi đọc lại “Tuyển tập Kim Nhật Thành” và “Lịch sử cuộc đấu tranh cách mạng”. Rõ chưa?

Chúng tôi đảm bảo với ông ta là chúng tôi hiểu cả.

Sau đó, một người đàn ông đến thăm chúng tôi, người ta giới thiệu ông là phó thủ tướng Kung. Ông ta cao dong dỏng, mặt tròn trịa, cặp mắt li ti giận dữ. Chúng tôi trò chuyện tại thư viện và ông ta nói một cách thẳng thừng, không rào trước đón sau.

– Như các cô biết đấy, mục tiêu của đảng là thống nhất Triều Tiên ngay trong đời của thế hệ chúng ta. Chúng tôi nghĩ đến điều đó và tin rằng các cô sẽ trở thành những chiến sĩ xuất sắc. Lựa chọn các cô từ khá nhiều thí sinh, tôi tin rằng các cô sẽ không làm chúng tôi phải thất vọng.

Ông ta ngừng lại để chúng tôi cảm nhận sâu sắc tính chất đo dọa của câu nói, rồi tiếp tục:

– Vài ngày nữa các cô sẽ đến một trường, tại đó nhiều điệp viên đặc biệt đã được đào tạo.

– Chúng tôi sẽ không lùi bước – chúng tôi đáp ngay, cùng một lúc.

– Các cô có biết tại sao chúng tôi sử dụng phụ nữ trong chiến tranh gián điệp không? – ông ta hỏi. – Vì sắc đẹp của họ. Nếu cần thiết, chúng tôi sẽ chờ đợi các cô mang thân thể ra bán. Hơn nữa, nếu các cô phải cư trú hợp pháp ở nước ngoài trong thời gian dài, các cô sẽ làm vợ những người do chúng tôi lựa chọn. Tôi hy vọng các cô hiểu điều này chứ?

Chúng tôi không nói một câu, song cả hai đều hoảng hốt, tâm trí bị quấy đảo. Buổi tối, khi đi nằm, tôi hỏi:

– Sukhi, cậu có làm nổi điều đó không? Nghĩa là ngủ với một kẻ không quen biết ấy?

– Không – cô thở dài. – Còn cậu?

– Tớ cũng không.

Khi lên tiếng một lần nữa, giọng cô đầy vẻ cay đắng.

– Tớ nghĩ rằng có phải bọn mình được quyền quyết định đâu, phải không?

Ít nhất tôi cũng cảm thấy cay đắng như điều tôi nhận thấy trong giọng nói của cô.

CHƯƠNG BA

Ngay trong tuần lễ đó, chúng tôi được chở đến Ký túc xá Quân sự Kesong, ở đây đợt tập huấn của chúng tôi bắt đầu một cách nghiêm túc. Ngay những bó buộc ngặt nghèo mà tôi đã trải qua trong kỳ học quân sự của chỉ là điều nhỏ nhặt so với những gì tiếp diễn ở đây.

Kesong nằm ở một thung lũng không thể đến gần nổi tại chân núi Ipbul, cách thế giới văn minh hàng trăm dặm. Chỉ có vài làng nhỏ nằm rải rác trong vùng lân cận. Trại được dựng trên một diện tích khá lớn vì người ta đào tạo hàng ngàn học sinh ở đây. Các điệp viên được huấn luyện tại một thung lũng bí mật, tách rời khỏi toàn thể ký túc xá. Chúng tôi được phân chỗ ở trong một căn nhà nhỏ, trước kia từng có nhà bếp, buồng giặt và thư viện. Chúng tôi được nhận một thời gian biểu nghiêm ngặt mà không bao giờ chúng tôi được chệch đi:

07.30-08.30 Nghiên cứu triết học và những công lao của Kim Nhật Thành
08.30-13.00 Học buổi sáng
13.00-16.00 Ăn trưa và nghỉ ngơi
16.00-17.30 Học buổi chiều
17.30-19.00 Thể dục
19.00-20.00 Ăn tối
20.00-21.00 Võ thuật
21.00-22.00 Hành quân tối
22.00-23.00 Học
23.00 Đi ngủ

Chúng tôi bị bắt ép học tập đến kiệt sức, người ta đo xem cơ thể và tinh thần chúng tôi có sức chịu đựng đến mức nào. Chúng tôi được học ngắm bắn một cách thiện xạ với đủ các loại vũ khí. Chúng tôi ở ngoài trời nhiều ngày, ngủ trong hang cáo. Nhân sinh nhật của Kim Nhật Thành, chúng tôi hành quân một trăm dặm (160 cây số) trong vòng ba ngày; người ta gọi đây là Cuộc hành quân Trung thành. Chúng tôi học lái xe với vận tốc lớn, rửa phim trong phòng tối được làm vội vã. Và trong suốt khoảng thời gian đó chúng tôi đọc các trước tác của Kim Nhật Thành.

Chúng tôi được dạy các môn võ thuật. Người ta yêu cầu phụ nữ phải chiến thắng hai, ba đàn ông cùng một lúc. Chưa bao giờ trong đời tôi lại tự tin như lúc đó. Chúng tôi còn học cận chiến với dao găm. Chúng tôi luyện tập bằng những chiếc dao nhựa dài 25 phân.

Không chỉ tập ngắm bắn mà thôi, chúng tôi còn phải học cách tháo và lắp đủ mọi thứ vũ khí, phải biết cách sửa chữa súng ống nữa. Chúng tôi bắn vào những tấm bia nhỏ xíu cách khoảng chín mục mét và tôi trúng đích đến 90 phần trăm.

Hàng tuần, chúng tôi được xem phim gián điệp hai lần, các phim đó hoặc tuyên truyền sự suy đồi của xã hội phương Tây, hoặc về những chiến tích của các siêu điệp viên ngày xưa.

Chỉ Chủ nhật chúng tôi mới được tự do nhưng khi ấy chúng tôi mệt mỏi rã rời đến mức không buồn ra khỏi giường.

Cô giáo dạy chúng tôi tiếng Nhật là Heinhe, chúng tôi rất thân với cô. Tôi được bà đầu bếp cho biết câu chuyện bi thảm của cô Heinhe. Cô vốn người Tokyo, tại đây cô tốt nghiệp phổ thông rồi lấy chồng. Cô có một trai và một gái, sau đó ít lâu vợ chồng cô chia tay nhau. Một ngày kia, khi cô chơi đùa cùng các con ngoài bãi biển, các điệp viên Bắc Triều Tiên bắt cóc họ và đưa vào trại tù binh. Trong trại, cô ốm năng tưởng không qua khỏi. Tuy nhiên rồi cô khỏi bệnh, khi đó cô không chịu ăn uống gì và suốt ngày cô chỉ kể cô nhớ hai đứa con biết nhường nào. Nhưng các nhân viên Bắc Hàn rất kiên nhẫn. Họ khiến Heinhe tin rằng rồi một ngày cô có thể được tự do nếu cô chịu tuân lệnh họ. Rốt cục, không còn cách nào khác, cô đành yên phận trong cuộc sống mới.

Tuy thương cô Heinhen vì số phận cô phải chịu nhưng tôi vẫn cho rằng hy sinh một phụ nữ Nhật duy nhất cho sự nghiệp của Bắc Hàn là một việc hoàn toàn chính nghĩa, nhất là nếu ta nghĩ đến chuyện nước Nhật đã nô lệ hóa và sau đó, đã áp bức Triều Tiên trong suốt bốn chục năm trời. Giờ đây, nhìn lại, tôi cảm thấy hổ thẹn vì ý nghĩ đó. Sự việc đáng tiếc này cũng chứng tỏ sự dã man vô lương tâm của chính phủ Bắc Triều Tiên và các nhân viên của họ.

Vì quá bất hạnh nên Heinhe hay uống rượu đến say xỉn và khi đó, đôi lúc cô cư xử khá khó chịu. Dù vậy, cô là một giáo viên xuất sắc và càng ngày tôi càng quý mến cô. Cô thường kể chuyện về các con và về Tokyo, cô hy vọng chẳng bao lâu nữa cô có thể được về Nhật. Tôi không biết cô có được về nhà không.

Chúng tôi kết bạn với cô, tin tưởng nhau, lúc nào cô cũng mong được gặp gỡ chúng tôi. Nhiệm vụ của cô không nhỏ: phải biến tôi thành một phụ nữ Nhật để khi tôi được cử đi hoạt động, không ai có thể đoán được tôi là người Bắc Hàn.

Có một làng bản cách nơi chúng tôi ở chừng một, hai dặm và tất nhiên là chúng tôi bị cấm tới đó. Nhưng một tối Chủ nhật nọ, Heinhe cứ nài chúng tôi hãy cùng cô đến làng vì chưa bao giờ cô được gặp người dân Bắc Triều Tiên bình thường. Chúng tôi thấy một vài ngôi nhà xiêu vẹo, những đứa trẻ con bẩn thỉu chạy nhảy trên đường phố. Tôi thấy hổ thẹn và muốn đưa Heinhe đi. Nhưng cô vẫn ngắm nghía lũ trẻ, mắt tràn lệ. Chúng làm thức tỉnh bản năng người mẹ trong cô.

– Đây là thế giới đẹp đẽ của các cô ư, Okhva? – cô nói, vẻ giễu cợt không giấu giếm. – Tôi thương hại các cô.

Trong trại chúng tôi còn có một người bạn tốt khác: bà đầu bếp Vulchi, một phụ nữ khoảng bốn mươi lăm tuổi, cũng từng trải qua một cuộc đời bi thảm. Năm mười mấy tuổi, bà yêu một người thợ tiện nhưng mẹ bà bắt bà phải làm vợ một thợ mỏ. Hai người sống cực khổ tại một làng nhỏ heo hút tên là Samchuon và Vulchi phải chịu đựng rất nhiều vì chồng bà thường xuyên bội bạc bà.

Một ngày kia, ông chồng bị một chiếc xe goòng cán chết. Trong lễ tang, Vulchi gặp lại người tình thời thanh niên của bà, ông ta vẫn yêu bà nhưng đã có gia đình. Họ không thể làm gì được.

Về sau, Vulchi hướng dẫn khóa học nấu ăn trong một trường học rồi bà được phân việc trong trại. Bà thích vẻ cô quạnh của Kesong vì như bà thường nói một cách bông đùa, ở đây ít ai quấy nhiễu bà. Trong khu nhà, bà đóng vai trò “người mẹ”, chúng tôi phải báo cáo cho bà biết nếu muốn đi dạo hoặc muốn ra khỏi vùng. Nhưng Vulchi là một phụ nữ cao thượng và bà hay cho phép chúng tôi làm những gì chúng tôi muốn.

*

Trong những năm sau, đôi khi tôi được phép về thăm gia đình nhưng đây là những dịp buồn bã. Cha mẹ tôi không bao giờ sẵn lòng để tôi đi và lúc đó tôi lại xấu hổ vì họ quyến luyến tôi đến mức ấy, bởi lẽ mọi người dân Bắc Triều Tiên “có óc suy nghĩ thích hợp” đều phải làm như thế. Sự quyến luyến với thân nhân không thuộc vào số những bổn phận yêu nước và tôi thì đã hoàn toàn bị ngấm vai trò mới: vai trò một kẻ tập nghề gián điệp. Thời ấy chúng tôi được biết đứa em trai nhỏ nhất của tôi, Bam So, bị ung thư da và các bác sĩ đã chịu bó tay.

Mẹ tôi biểu lộ nỗi ưu phiền vì tôi phải xa nhà một cách thẳng thừng và to tiếng, nhưng tôi biết cha tôi cũng nhớ tôi, ít ra là như thế. Cha tôi rất gắn bó với tôi từ thuở tôi còn nhỏ, ông luôn gọi tôi là quận chúa. Trên nhiều phương diện, cha tôi là một người bí ẩn. Tôi biết ông tự hào về tôi và tôi cũng biết trên cương vị một cán bộ đảng, ông thuộc tầng lớp người được ưu đãi nhất ở Bắc Hàn, vậy mà vẫn có một cái gì đó nhắn nhủ tôi rằng trong đáy sâu tâm hồn ông, ông phẫn nộ vì chính phủ đã bắt tôi phải ra đi.

Đó là tình thương, đáng tiếc không có mặt trong cương lĩnh quốc gia của Kim Chính Nhật.


Tìm kiếm với từ khoá:



      

      Share

Hiển thị bài viết từ:

 

Sắp xếp theo

 

 Trang 1/9
 [ 27 bài ] 

Chuyển đến trang 
1

,

2

,

3

,

4

,

59 Trang sau

     

     

Chuyển đến:
 






Đang truy cập 

Không có thành viên nào đang truy cập

Điều hành 

Số 15, Thử việc Box Truyện phương Đông


Bạn không thể tạo đề tài mới
Bạn không thể viết bài trả lời
Bạn không thể sửa bài của mình
Bạn không thể xoá bài của mình
Bạn không thể gởi tập tin kèm

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Giáo Dục

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Kiến Thức Chung

Related Articles

Back to top button